TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM LÊ HỮU KIỀU (1691 - 1760)
Tế tửu Lê Hữu Kiều, tự là Tốn Trai, sinh năm 1691 tại làng Liêu Xá, huyện Đường Hào (nay thuộc Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Ông không chỉ là một danh nhân kiệt xuất của triều đại Lê Trung Hưng mà còn là tấm gương sáng ngời về tài năng, đức độ và sự cống hiến không ngừng nghỉ cho đất nước. Trong suốt cuộc đời, ông đã ghi dấu ấn sâu sắc trên cả hai lĩnh vực văn hóa và chính trị, trở thành một biểu tượng mẫu mực của bậc hiền tài.
Theo bia Tốn Trai Lý Lịch Ký tại quê hương, Lê Hữu Kiều sinh ngày 2 tháng 9 năm Tân Mùi, niên hiệu Chính Hòa thứ 12 (1691). Ông xuất thân từ dòng họ Lê danh giá, tên hồi nhỏ là Nhượng, sau đổi thành Hữu Kiều. Khi mới 15 tuổi, ông tham gia kỳ thi Hương và đỗ Tam trường. Đến năm 18 tuổi, ông xuất sắc đỗ kỳ thì Hương. Không dừng lại ở đó, Lê Hữu Kiều tiếp tục khẳng định năng lực vượt trội trong học vấn và thi cử. Năm 25 tuổi, ông trúng tuyển kỳ thi Hoành từ, được bổ nhiệm một văn chức trong nội điện. Đến năm 1718, khi 28 tuổi, ông đỗ Đồng Tiến sĩ trong kỳ thi lớn nhất cả nước – một cột mốc mở ra con đường quan lộ sáng lạn.
Sau khi đỗ Tiến sĩ, Lê Hữu Kiều bắt đầu đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng. Ban đầu, ông được bổ làm Sát đề hình Thanh Hoa, tiếp đó là Đốc đồng Thái Nguyên, và dần thăng tiến lên các vị trí như Đãi chế, Thanh hiến Học sĩ, Tri Binh phiên và Tham tụng. Những chức vụ này đòi hỏi năng lực quản lý và tư duy chiến lược vượt trội, điều mà Lê Hữu Kiều luôn thể hiện xuất sắc.
Đặc biệt, ông không chỉ là một quan văn tài ba mà còn thể hiện năng lực trong lĩnh vực quân sự. Năm 42 tuổi, ông được bổ làm Đốc trấn Cao Bằng – vùng biên ải trọng yếu của đất nước. Sau một năm, ông được triệu hồi về kinh và thăng Phó Đô Ngự sử, một chức quan cao cấp trong bộ máy giám sát triều đình.
Trong hành trình sự nghiệp, Lê Hữu Kiều còn nổi bật với vai trò là một nhà ngoại giao. Năm 47 tuổi, ông được cử làm Phó sứ sang Bắc quốc chúc mừng, thể hiện sự khéo léo và bản lĩnh trong ngoại giao. Nhờ công lao này, ông được thăng Tả công và tước Liêu Đình bá.
Khi đất nước bước vào những năm tháng khó khăn, ông lại được triều đình tin tưởng giao phó những nhiệm vụ quan trọng. Năm 1740, ông trở về triều giữ chức Đô Ngự sử, được phong tước hầu, và tiếp tục đảm nhiệm vai trò Lưu thủ Thanh Hoa. Đây là giai đoạn mà ông vừa phải giải quyết các vấn đề nội trị vừa tổ chức phòng thủ bảo vệ đất nước.
Trong sự nghiệp của mình, ông còn góp phần không nhỏ trong công tác giáo dục và tuyển chọn nhân tài. Ông nhiều lần được cử làm Tri Cống cử, trực tiếp tổ chức các kỳ thi Hội – những kỳ thi lớn nhằm tìm kiếm nhân tài cho quốc gia. Với sự cẩn trọng và uy tín, ông đảm bảo mỗi kỳ thi diễn ra công bằng, góp phần xây dựng đội ngũ nhân sự tài đức cho triều đình.
Dù tuổi cao, Lê Hữu Kiều vẫn tiếp tục phục vụ đất nước. Ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ quan trọng như Thượng thư Bộ Lễ, Thượng thư Bộ Hình và Bộ Binh. Đặc biệt, ông được giao phó nhiệm vụ tổ chức và thiết lập nền cai trị ở các vùng trọng yếu như Cổ Dương (Từ Sơn, Bắc Ninh ngày nay) và Thanh Hoa.
Đến năm 1755, khi đã 65 tuổi, ông xin cáo quan về quê. Triều đình đặc biệt ban cho ông Thái kỳ (cờ hiệu) và tám đôi câu đối, thể hiện sự tôn kính đối với công lao của ông. Người dân quê hương đã long trọng tổ chức nghênh tiếp, ghi nhận sự cống hiến to lớn của ông cho đất nước và cộng đồng.
Năm 1760, Lê Hữu Kiều qua đời ở tuổi 70. Triều đình truy phong ông chức Thiếu phó và tước Quận công, khẳng định vị trí của ông trong lịch sử như một trong những đại thần kiệt xuất nhất của triều Lê Trung Hưng.
Cuộc đời Lê Hữu Kiều là biểu tượng của sự trung kiên, tài đức vẹn toàn. Ông không chỉ là một nhà chính trị xuất sắc, một nhà giáo dục tài ba, mà còn là một nhà ngoại giao khéo léo. Di sản của ông vẫn còn được lưu giữ trong lòng người dân và các ghi chép lịch sử, là tấm gương sáng ngời cho các thế hệ mai sau. Với tài năng và cống hiến của mình, Lê Hữu Kiều mãi là niềm tự hào của quê hương Liêu Xá và đất nước Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
-
Hội thảo khoa học Tế tửu, Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Trung tâm hoạt động VHKH VĂn Miếu – Quốc Tử Giám, 2015
-
Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú, Tập 1, NXB Giáo dục, 2007
LH
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM NGUYỄN HUY OÁNH
Nguyễn Huy Oánh (1713 – 1789) tự Kính Hoa, hiệu Lựu Trai và Thạc Đình, người làng Trường Lưu, huyện La Sơn nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Năm 1748, khoa thi Mậu Thìn (niên hiệu Cảnh Hưng 9) ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa). Sau khi thi đỗ, ông được bổ làm Hàn lâm viện Đãi chế, năm sau làm Tham mưu đạo Thanh Hoa.
Năm 1750, ông làm Hiệp đồng Nghệ An, sau đó được bổ làm Đông các Hiệu thư rồi Thượng bảo Tự khanh, Đề điệu các trường thi Hương hai xứ Hải Dương, Yên Quảng, Khám quan ở các huyện Yên Phong, Yên Việt. Năm 1756, ông làm Tán trị Thừa chính sứ xứ Sơn Nam, sau đó được thăng Đông các Đại học sĩ. Năm 1759, ông được triệu về kinh ban thêm chức Tri biên phiên (phụ trách việc cơ mật), làm Nội giảng kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Về sau, ông được thăng Thượng thư Bộ Công, Tế tửu Quốc Tử Giám.
Năm 1761, Nguyễn Huy Oánh được ban phẩm phục hàng tam phẩm tiếp đón sứ nhà Thanh. Vì có tài ứng đối, năm 1765, ông được triều đình nhà Lê cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Ngày ông đi sứ triều đình có ban thơ tiễn. Các quan trong triều nhiều người làm thơ tặng. Lê Quý Đôn đã viết những lời trân trọng: “Quan huynh tài học dồi dào. Thuở đi thi bảng vàng chiếm đầu danh sách. Làm quan lại được chọn dẫn đầu đoàn đi sứ. Cánh phượng bay cao quả đã thỏa chí bình sinh.” Sang Trung Hoa, đoàn sứ bộ của Nguyễn Huy Oánh đã được vua quan nhà Thanh đón tiếp rất long trọng và sau hành trình vất vả suốt một năm trở về ông được phong tước Bá.
Khi sống tại quê nhà, Nguyễn Huy Oánh tiếp tục tập trung vào việc dạy học, trước tác. Ở nơi đây ông cũng đã gặt hái được nhiều thành tựu. Về dạy học, học trò của ông có khoảng 30 người thi đỗ Tiến sĩ. Ông là người đích thân khởi xướng lập quỹ “Học điền”, giúp cho học trò nghèo học giỏi có điều kiện học hành thi cử. Ông còn lập một Thư viện lớn chứa đến mấy vạn quyển sách để phục vụ cho việc dạy và học gọi là Phúc Giang thư viện. Ghi nhận công lao này, năm 1824 vua Minh Mạng nhà Nguyễn đã có sắc phong Thần cho Nguyễn Huy Oánh làm “Phúc Giang Thư viện uyên bác chi thần” (vị thần uyên bác của viện sách Phúc Giang). Theo đánh giá của Viện Sử học “đây là một ân sủng đặc biệt của triều Nguyễn giành cho Nguyễn Huy Oánh và là một trường hợp hi hữu trong lịch sử ban sắc phong Thần ở nước ta thời xưa”./.
An Nhiên
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM TRẦN DANH NINH
Trần Danh Ninh (1703 – 1766) là một vị quan nổi tiếng thời Lê Trung hưng, sinh ra tại xã Bảo Triện, huyện Gia Định, nay là xã Nhân Thắng, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã tỏ rõ sự thông minh và tinh thần ham học. Xuất thân từ một vùng quê giàu truyền thống văn hóa, ông không chỉ tiếp nhận được những tri thức từ gia đình mà còn không ngừng nỗ lực trong việc học hỏi và rèn luyện bản thân. Từ nhỏ, Trần Danh Ninh đã bộc lộ phẩm chất chăm chỉ, chịu khó và ý chí quyết tâm, đặc biệt là niềm say mê với văn chương và đạo lý.
Nhờ vào sự miệt mài và cố gắng không ngừng, tài năng văn chương của ông dần nổi tiếng khắp nơi. Sau ra ứng thí, từ kỳ thi Hương đến thi Đình, những kỳ thi tuyển chọn nhân tài của triều đình, Trần Danh Ninh đều xuất sắc đạt vị trí đứng đầu. Năm 21 tuổi, ông tham gia kỳ thi Hương, một kỳ thi cấp địa phương và là bước đệm đầu tiên trong sự nghiệp học vấn, và đã đạt Giải nguyên. Đây là thành tích cao nhất trong kỳ thi, cho thấy sự tài năng vượt trội của ông ngay từ khi còn trẻ. Đến năm 29 tuổi, Trần Danh Ninh tiếp tục tham gia kỳ thi Đình, ông đã đỗ đầu hàng Tiến sĩ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Tân Hợi (1731). Danh hiệu này khẳng định tài năng của ông trong giới học vấn và mở ra cho ông con đường sự nghiệp vững chắc trong triều đình. Khoa thi này hiện được dựng đề danh đặt tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Năm 1740, Trần Danh Ninh được bổ nhiệm vào chức ông làm Hàn lâm Thị độc, vị trí quan trọng trong Hàn lâm viện, giữ việc đọc sách, tham khảo. Ông cũng được vào phủ chúa làm Bồi tụng, Đây là một vinh dự lớn lao đối với một người vừa mới bước chân vào triều đình, đồng thời cũng là thử thách để ông thể hiện khả năng của mình trong việc đảm trách các nhiệm vụ chính sự phức tạp. Năm Quý Hợi (1743), ông được thăng làm Tế Tửu Quốc Tử Giám, chức quan đứng đầu trung tâm giáo dục lớn nhất thời quân chủ, chịu trách nhiệm rèn tập, đào tạo nhân tài cho đất nước. rồi vì có lỗi phải thôi chức Bồi tụng. Dù vậy, ông vẫn giữ vững ý chí và tiếp tục đóng góp cho triều đình.
Sau khi bị thôi chức, Trần Danh Ninh không hề nản lòng. Ông vẫn có cơ hội tiếp tục cống hiến, nhất là khi ông theo chúa đi đánh dẹp giặc giã ở phía Nam và lập được nhiều công lao. Nhờ những đóng góp to lớn này, ông được phong làm Đại học sĩ Đông các, một chức vụ quan trọng đảm nhiệm việc soạn thảo các văn bản chính sự và văn bản lễ nghi cho triều đình. Chức vụ này không chỉ đòi hỏi kiến thức sâu rộng mà còn yêu cầu sự chính trực và tinh thần trách nhiệm cao. Sau đó, ông tiếp tục nhận lệnh làm Tán lý Đông Đạo để tiễu trừ giặc cỏ, khẳng định vai trò của ông trong việc bảo vệ sự yên bình cho đất nước. Trong thời gian này, Trần Danh Ninh còn được triều đình tin tưởng giao lại vị trí Bồi tụng, đồng thời tham gia điều hành các công việc trọng yếu ở viện Khu mật – cơ quan tham mưu quân sự của triều đình.
Nói về phẩm chất và khí phách của Trần Danh Ninh, sử gia Phan Huy Chú đã dành cho ông những lời khen ngợi rất sâu sắc: “Ông là người cương quyết, nghiêm nghị, tự giữ cái phong thể của mình, việc giáp binh, việc tế lễ việc nào cũng làm được cả. Đến như ở chốn triều đình bàn việc chính trị thì ông rất khảng khái, công bằng, ngay thẳng, lẫm liệt, không ai dám phạm, có khuôn mẫu, khí độ bậc danh thần; bấy giờ ai cũng kính phục.” Lời nhận xét này cho thấy Trần Danh Ninh không chỉ là một người tài năng mà còn có đức độ và khí chất của một bậc danh thần đích thực. Ông luôn giữ vững lập trường, chính trực và không khuất phục trước quyền lực hay lợi ích cá nhân, sẵn sàng đấu tranh vì lẽ phải và sự công bằng.
Đến mùa đông năm Nhâm Thân (1752), ông lại tiếp tục theo chúa đi đánh dẹp ở phía Tây. Trong cuộc chiến này, ông lại lập được công lớn, giúp triều đình dẹp yên giặc loạn, đảm bảo sự ổn định và bình yên cho dân chúng. Với những thành tích đáng kể trong cuộc chiến, ông được triều đình phong lên chức Hữu thị lang bộ Công. Năm 1761, Trần Danh Ninh tiếp tục thăng tiến, được bổ nhiệm làm Thị lang bộ Lễ, rồi sau đó là Tả thị lang bộ Hình. Ngoài ra, ông còn kiêm nhiệm vai trò Tổng tài Sử quán, người chịu trách nhiệm chính trong việc biên soạn và ghi chép lịch sử của triều đại. Đây là một nhiệm vụ cao quý, đòi hỏi một người có tầm nhìn, đạo đức và khả năng ghi chép trung thực, không thiên vị.
Năm Bính Tuất (1766), khi đã 64 tuổi, Trần Danh Ninh xin từ chức để về quê dưỡng già. Triều đình tôn trọng quyết định này của ông và phong tặng ông chức Thượng thư bộ Lễ, như một sự ghi nhận những đóng góp to lớn của ông suốt cả cuộc đời. Tuy nhiên, vào mùa xuân năm Đinh Hợi (1767), khi chưa kịp trở về quê hương, Trần Danh Ninh đột ngột qua đời tại triều đình. Triều đình truy tặng ông danh hiệu Thiếu bảo, và đặt tên thụy là Mẫn Đạt để ghi nhớ công lao và phẩm chất cao quý của ông. Tên thụy “Mẫn Đạt” không chỉ là một danh hiệu mà còn là sự tri ân của triều đình dành cho một con người luôn tận tụy và hết lòng vì đất nước.
Trong suốt 16 năm phục vụ tại triều đình, Trần Danh Ninh luôn giữ tinh thần trung kiên, cương trực, không hề xu nịnh hay a dua theo bất kỳ thế lực nào. Ông luôn kiên định và công bằng trong xử lý mọi việc, khiến các quan đồng nghiệp và cả nhân dân đều hết lòng kính trọng. Ông để lại tấm gương sáng về phẩm chất và tài năng, một vị quan mẫu mực trong nền văn hóa chính trị thời Lê Trung hưng.
Sự nghiệp của Trần Danh Ninh không chỉ là một hành trình của học vấn và sự nghiệp chính trị, mà còn là minh chứng cho một người mang trong mình tâm huyết vì dân vì nước. Tên tuổi ông đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lịch sử với những phẩm chất đáng quý, trở thành biểu tượng của lòng trung thành, sự chính trực và lòng yêu nước thương dân.
Tài liệu tham khảo:
-
Đại Nam Nhất Thống Chí, Phạm Trọng Điềm-Hiệu đính: Đào Duy Anh, NXB Thuận Hóa, 2006
-
Việt sử cương mục tiết yếu, Đặng Xuân Bảng, NXB KHoa học xã hội, 2000
-
Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú, Tập 1,NXB Giáo dục, 2001
LH
TRẠNG NGUYÊN TRỊNH TUỆ - TẤM GƯƠNG VƯỢT KHÓ HỌC GIỎI
Trịnh Tuệ là một danh nhân của vùng đất Thanh Hóa, mang dấu ấn đặc biệt trong lịch sử khoa cử và học thuật Việt Nam. Sinh năm 1706 dưới thời vua Lê Dụ Tông, Trịnh Tuệ xuất thân từ một gia đình thuộc dòng dõi nhà chúa, nhưng gia cảnh nghèo khó. Dù thuộc dòng dõi cao quý, ông không hề dựa dẫm mà luôn nỗ lực vươn lên nhờ sự thông minh và ý chí mạnh mẽ.
Ban đầu, Trịnh Tuệ sống ở thôn Sóc Sơn, xã Biện Thượng, huyện Vĩnh Phúc (nay là xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa), sau gia đình ông lại chuyển đến vùng Bất Quần, Quảng Xương (Thanh Hóa) – nơi ông lớn lên và rèn luyện tri thức. Núi Voi ở Quảng Xương, nơi ông từng dựng nhà học, đã trở thành Văn chỉ của huyện, là một trong những dấu tích về cuộc đời và sự nghiệp của ông.
Truyền rằng Trịnh Tuệ là người tài trí phi thường, mỗi lần nhìn vào sách chỉ cần một lượt qua là nhớ như in. Sự thông minh ấy còn được hỗ trợ bởi ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi. Người trong làng vẫn hay nhắc mãi câu ca: “Trịnh Tuệ thức sớm ngủ khuya, quên ăn vì học không lìa sử kinh,” và hình ảnh người học trò kiên trì ấy trở thành câu chuyện động viên lớp trẻ vùng quê Bất Quần thời ấy.
Đến năm 1723, khi chỉ mới đỗ Hương cống, tài năng của Trịnh Tuệ đã được triều đình đánh giá cao, và ông được giữ chức Phó Trị Hình Phiên. Năm 1736, Trịnh Tuệ lại ghi dấu mốc mới khi ông đỗ Trạng nguyên – vị trí cao nhất trong hệ thống khoa bảng của nước ta lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, việc thi cử đỗ đạt của ông lúc đó gây nhiều tranh cãi cho rằng ông được thiên vị vì là dòng dõi nhà chúa Trịnh và có quan hệ thân tình với quan hoạn Hoàng Công Phụ, nên trong triều không ít kẻ dị nghị. Trong cuốn “Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919” ghi lại sự kiện này: Sử gia cũng như dư luận đương thời đều cho rằng, khoa thi này Trịnh Giang cố ý tổ chức thi Đình ở phủ chúa Trịnh (không phải ở điện như vua Lê thường lệ) mà việc lấy Trịnh Tuệ đỗ Trạng nguyên là do sự bố trí của hoạn quan Hoàng Công Phụ ... Những lời đàm tiếu khiến ông không ít lần phiền lòng. Một lần, ông đã mời các quan đồng liêu đặt câu hỏi về mọi kiến thức trong các lĩnh vực từ kinh sử, toán học đến y học, lý số để chứng minh bản thân. Được hỏi đến đâu, Trịnh Tuệ đáp đến đấy, như dòng nước chảy, khiến mọi người đều phải cúi đầu thán phục trí tuệ của ông.
Sử cũ còn chép rằng: Năm 1740, có một lần chúa Trịnh Doanh nghi ông về phe với Hoàng Công Phụ phản loạn và bắt giam vào ngục. Sau triều đình xét lại, nghĩ ông là người trong họ Trịnh, có thể không dự vào âm mưu phản nghịch. Nhờ đó được tha, giáng xuống Thừa chỉ. Sau thăng đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám (hiệu trưởng Quôc Tử Giám) .
Bia tiến sĩ khoa thi năm 1736 vinh danh tên tuổi Trang nguyên Trịnh Tuệ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám
Đến cuối đời, Trịnh Tuệ chọn quay về quê hương, trở lại núi Voi – nơi ông từng dựng nhà học thuở thiếu thời. Ông mở lớp dạy học cho con em trong vùng, truyền thụ tri thức và kinh nghiệm của mình cho các thế hệ sau. Học trò của ông, nhiều người đỗ đạt cao, trở thành quan chức, người tài. Khi ông qua đời được triều đình tặng hàm Hựu thị lang. Người dân quê hương ông đã dựng đền thờ ngay tại chân núi Voi để tưởng nhớ người thầy đáng kính. Đến thế kỷ XVIII, danh sĩ Lê Quý Đôn khi về làm Đốc học Thanh Hóa đã ghé thăm đền, quyên góp tu sửa và khắc bức đại tự "Trạng nguyên từ" để tri ân người trí giả vĩ đại của quê hương Thanh Hóa.
Trịnh Tuệ cũng chính là vị Trạng nguyên cuối cùng của chế độ khoa cử Việt Nam, vì các khoa thi sau không ai đỗ Trạng nguyên. Dưới triều Nguyễn từ khoa thi Đình năm Nhâm Ngọ triều Minh Mệnh thứ 3 (1822) đến khoa thi cuối cùng năm Kỷ Mùi dưới triều vua Khải Định thứ 3(1919) đều không lấy học vị Trạng nguyên. Trịnh Tuệ không chỉ là một danh sĩ mà còn là biểu tượng của ý chí, sự kiên trì, minh chứng rằng tài năng và đức độ của người chân chính rồi sẽ được ghi nhận qua thử thách thời gian.
AV
-------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919, Ngô Đức Thọ chủ biên, NXB Văn học, 1993;
2. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Tế tửu, tư nghiệp Quốc Tử Giám Thăng Long – Hà Nội, Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám, năm 2015, trang 123;
3. Văn Miếu – Quốc Tử Giám và 82 bia Tiến sĩ Thăng Long – Hà Nội, Ngô Đức Thọ chủ biên, Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám, năm 2002, Văn bia Tiến sĩ khoa thi năm 1736.
BẮC NINH – QUÊ HƯƠNG CÓ NHIỀU VỊ TIẾN SĨ TỪNG GIỮ CHỨC TẾ TỬU, TƯ NGHIỆP QUỐC TỬ GIÁM
Chức quan Tế tửu Quốc Tử Giám (hiệu trưởng) giữ việc trông coi Văn Miếu – Quốc Tử Giám, rèn tập sĩ tử, đào tạo nhân tài và kiêm việc chủ tế ở Văn Miếu. Còn chức quan Tư nghiệp Quốc Tử Giám (hiệu phó) giúp việc cho quan Tế tửu. Đời Trần, chưa có chức Tế tửu, thì chức Tư nghiệp đứng đầu Quốc Tử Giám. Triều đình thường tuyển chọn những bậc danh Nho, đại thần đạo đức trong sáng giữ chức Tế tửu, Tư nghiệp. Từ khi triều đình quy định các chức quan trên (1328) đến hết thời Lê, cả nước có 97 vị Tế tửu và Tư nghiệp Quốc Tử Giám, riêng Bắc Ninh có tới 19 vị quan chức này:
1. Vũ Mộng Nguyên (1380 - ?): người thôn Đông Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ Đệ nhị giáp khoa thi Thái học sinh năm Canh Thìn (1400), làm quan đến chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, sau thăng chức Tế tửu Quốc Tử Giám.
2. Nguyễn Thiên Tích: người thôn Lộ Bao, xã Nội Duệ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ khoa Hoành từ năm Tân Hợi (1431), ba lần được cử đi sứ nhà Minh. Ông làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám, Hàn lâm viện Thị độc.
3. Nguyễn Nhân Thiếp (1452 - ?): người xã Kim Chân, thành phố Bắc Ninh. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1466). Ông từng giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám, Thượng thư Bộ Lại.
4. Nguyễn Kim (1443 - ?): người thôn Lộ Bao, xã Nội Duệ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ Hoàng giáp khoa Ất Mùi (1475), làm quan đến chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám.
5. Nguyễn Vô Cữu: người xã Nội Duệ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1484), làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám.
6. Nguyễn Hoằng Nghị (1462 - ?): người khu Trang Liệt, phường Trang Hạ, thị xã Từ Sơn. Ông đỗ Hoàng giáp khoa Canh Tuất (1490), làm quan đến chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám.
7. Nguyễn Hiếu Tư (1459 - ?): người thôn Dương Sơn, xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Ất Sửu (1505), làm quan đến chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám.
8. Hứa Tam Tỉnh (1476 - ?): người thôn Như Nguyệt, xã Tam Giang. Ông đỗ Bảng nhãn khoa Mậu Thìn (1508), làm quan đến chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Thượng thư Bộ Lại.
9. Nguyễn Trọng Hiệu (1486 – 1559): người thôn Đồng Đông, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ Hoàng giáp khoa Giáp Tuất (1514), làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám, Thượng thư Bộ Lễ.
10. Nguyễn Địch Khang (1492 - ?): người thôn Tư Thế, xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ Hoàng giáp khoa Nhâm Thìn (1532), làm quan đến chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Lại bộ Tả thị lang.
11. Hoàng Sỹ Khải: người thôn Lai Tê, xã Trung Chính. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1544), làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám, Thượng thư Bộ Lễ.
12. Nguyễn Hùng Đoán: người thôn Cổ Lãm, xã Bình Định, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1556), làm quan đến chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám.
13. Nguyễn Đăng Minh (1623 - 1696): người thôn Hoài Thượng, xã Liên Bão. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1646), làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám.
14. Nguyễn Thiệm (1599 - ?): người khu Cẩm Giang, phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Canh Dần (1650), làm quan đến chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Tham chính.
15. Nguyễn Long Bảng (1652 - ?): người thôn Chân Lạc, xã Dũng Liệt. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Quý Hợi (1683), làm quan đến chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám.
16. Nguyễn Đức Vĩ (1700 - 1775): người thôn Phật Tích, xã Phật Tích. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1727). Ông từng giữ nhiều chức quan quan trọng như Đô ngự sử, Hữu thị lang Bộ Lại, Đông các Hiệu thư, Hữu thị lang Bộ Binh, Tả thị lang Bộ Lại, Tế tửu Quốc Tử Giám.
17. Trần Danh Ninh (1703 – 1766): người thôn Phương Triện, xã Đại Lai. Ông đỗ Hoàng giáp năm 1731, từng giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám.
18. Vũ Miên (1718 - 1782): người thôn Ngọc Quan, xã Lâm Thao. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1748), làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám, Tả thị lang Bộ Binh.
19. Nguyễn Kiều Nhạc (1589 - ?): người thôn Hoài Thượng, xã Liên Bão, huyện Tiên Du. Ông đỗ Hoàng giáp khoa Tân Mùi (1631), làm quan đến chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Hàn lâm viện Thị độc.
Về việc giảng dạy ở Quốc Tử Giám, mỗi tháng học quan ra một bài tiểu tập, bốn tháng trong bốn mùa (xuân, hạ, thu, đông) quan giám khảo ra một bài đại tập để khảo sát các Giám sinh. Đi thi bốn kỳ đều trúng tuyển thì được thi Hội, thi Đình nếu đúng vào năm đó có tổ chức thi, hoặc được các quan tại trường Giám bảo cử để Bộ Lại tuyển dụng.
Những vị quan Tế tửu, Tư nghiệp Quốc Tử Giám là những con của quê hương Bắc Ninh đều là những vị danh nho, đại thần tài năng đức độ. Họ đều là những người thầy tài giỏi, mẫu mực, là tấm gương sáng ngời để thế hệ ngày nay học tập và noi theo.
Tài liệu tham khảo: Trung tâm HĐ VHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hội thảo khoa học Tế tửu, Tư nghiệp Quốc Tử Giám Thăng Long, Hà Nội, 2015.
An Nhiên
GIA ĐÌNH CÓ HAI CHA CON ĐỀU LÀ HIỆU TRƯỞNG QUỐC TỬ GIÁM
Đó chính là gia đình của đại thi hào Nguyễn Du, cha của ông là Nguyễn Nghiễm và anh trai của ông là Nguyễn Khản đều là những vị quan đại thần giữ chức vụ cao tại Quốc Tử Giám, nơi đào tạo những bậc hiền tài cho đất nước. Họ đều đảm nhận vai trò Tế tửu, một chức vụ cao nhất tại Quốc Tử Giám.
Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Nghiễm
Nguyễn Nghiễm, có tên tự là Hy Tư, hiệu Nghị Hiên, sinh năm Mậu Tý (1708) tại xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, một vùng đất nổi tiếng với truyền thống khoa bảng và văn hóa. Ông nổi danh từ khi còn trẻ. Năm Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 3 (1731), Nguyễn Nghiễm đỗ thứ hai hàng đệ nhị giáp (Hoàng giáp). Khi đó ông mới 24 tuổi, được gọi là “thiếu tuấn” - tức là người trẻ tuổi nhất khoa thể hiện sự ngưỡng mộ về tài năng và trí tuệ ở độ tuổi trẻ như vậy.
Sau khi đỗ đạt, Nguyễn Nghiễm đã trải qua hơn 40 năm làm quan, phục vụ trong nhiều vị trí quan trọng trong triều đình Lê - Trịnh. Ông từng giữ các chức vụ như Tổng tài Quốc sử quán, Thượng thư các bộ Công, Lễ, Hộ, và hai lần đảm nhận vai trò Tham tụng, tương đương với chức Tể tướng. Điều đáng chú ý là dù xuất thân từ quan văn, Nguyễn Nghiễm cũng là một vị tướng tài ba, từng nhiều lần được triều đình cử đi trấn áp các cuộc nổi loạn. Vai trò của ông không chỉ giới hạn ở giáo dục, mà còn ở quản lý hành chính và quân sự, cho thấy tài năng toàn diện.
Năm 1767, khi giữ chức Thượng thư và Tham tụng, ông đồng thời đảm nhiệm chức Tri Quốc Tử Giám. Như vậy, Tri Quốc Tử Giám là chức kiêm nhiệm, chứng tỏ sự tin cậy của triều đình vào tài năng và đức độ của ông. Với vai trò này, Nguyễn Nghiễm không chỉ là người lãnh đạo giáo dục, mà còn là tấm gương sáng cho con cháu và thế hệ học trò. Chính sự dạy dỗ, rèn luyện của ông đã nuôi dưỡng nên những nhân tài xuất chúng, trong đó có đại thi hào Nguyễn Du.
Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Khản
Nguyễn Khản, con trai của Nguyễn Nghiễm, cũng là một nhân vật có ảnh hưởng lớn trong triều đình và văn hóa thời bấy giờ. Sau khi đỗ tiến sĩ khoa thi năm Canh Thìn (1760) khi mới 27 tuổi, Nguyễn Khản đã nhanh chóng trở thành một vị quan trọng yếu trong triều đình. Ông từng giữ chức Hàn lâm viện học sĩ, Tế tửu Quốc Tử Giám và Đại học sĩ.
Tài năng của Nguyễn Khản không chỉ giới hạn trong lĩnh vực chính trị và hành chính, mà ông còn là một người có kiến thức sâu rộng về âm nhạc và nghệ thuật. Ông sáng tác nhiều điệu hát mới và các bài hát do ông viết ra thường được nghệ sĩ trong các giáo phường lưu truyền. Đây là minh chứng cho sự đa tài và tinh tế trong nghệ thuật của ông, góp phần vào việc phát triển văn hóa thời bấy giờ.
Trong suốt thời gian làm quan, Nguyễn Khản đã nhiều lần được giao nhiệm vụ quan trọng như làm Tả tư giảng để dạy học cho thế tử Trịnh Khải, sau đó giữ chức Bồi tụng, một trong những chức vụ cao nhất trong triều đình. Điều này cho thấy không chỉ tài năng mà còn sự tin tưởng lớn mà ông nhận được từ triều đình.
Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Khản đều đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Quốc Tử Giám – trung tâm giáo dục hàng đầu của quốc gia vào thời bấy giờ. Với chức vụ Tế tửu, họ đã trực tiếp tham gia vào việc quản lý và giám sát quá trình đào tạo, rèn tập cho những học trò tinh hoa của đất nước. Đây không chỉ là trách nhiệm lớn lao, mà còn thể hiện vai trò của gia đình Nguyễn Nghiễm trong việc góp phần vào nền học vấn và văn hóa của dân tộc.
Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Khản là những nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam với những đóng góp quan trọng trong cả lĩnh vực giáo dục và quản lý nhà nước. Họ không chỉ là những vị đại quan, mà còn là những tấm gương về đạo đức và học vấn. Di sản của họ còn sống mãi trong tinh thần và tâm hồn của các thế hệ sau, trong đó có đại thi hào Nguyễn Du, người đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn học Việt Nam.
Hiện tại, tại di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn còn lưu giữ hai tấm bia đề danh Tiến sĩ của khoa thi năm Tân Hợi 1731 và khoa thi năm Canh Thìn 1760, trên đó ghi tên của Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm và Tiến sĩ Nguyễn Khản, minh chứng cho một giai đoạn rực rỡ trong lịch sử giáo dục và khoa bảng Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1, Đại việt sử ký tục biên, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu Hán Nôm, Dịch giả: Ngô Thế Long và Nguyễn Kim Hưng, Hiệu đính: Nguyễn Đồng Chi, NXB Văn hóa thông tin, 2011
2. Văn Miếu – Quốc Tử Giám và 82 bia Tiến sĩ Thăng Long – Hà Nội, Ngô Đức Thọ chủ biên, Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám, năm 2002
3. Vũ Trung tùy bút, Phạm Đình Hổ, NXB Văn học, 2001
4. Bài văn bia khắc trên bia khoa thi Tiến sĩ năm 1760; 1769
5. Bức hoành phi “Cổ Kim Nhật Nguyệt” treo tại Bái Đường di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám
6. Chuông Bích Ung treo tại Bái Đường di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám
LH
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP HIỆU TRƯỞNG QUỐC TỬ GIÁM NGUYẾN NGHI
Nguyễn Nghi (1588-1657), sinh tại làng Vân Điềm, huyện Đông Ngàn (nay là thôn Vân Điềm, xã Vân Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội), trong gia đình quan lại nổi tiếng đương thời. Cha ông - Nguyễn Thực, là Thượng thư, tước công, đỗ Hoàng giáp khoa thi năm 1595. Từ nhỏ, Nguyễn Nghi đã sống trong môi trường học thuật, ham học và sớm thuộc lòng kinh sử dưới sự hướng dẫn của cha.
Năm 1619, khi mới 32 tuổi, ông đỗ Tiến sĩ trong kỳ thi Kỷ Mùi, niên hiệu Hoằng Đinh thứ 20 đời Lê Kinh Tông và cũng như cha của mình tên tuổi của hai cha con đều được khắc trên bia Tiến sĩ đặt tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Sau khi đỗ đạt, ông được triều đình trọng dụng, giao phó nhiều trọng trách.
Năm 1630, triều đình cử đoàn sứ trong đó có Nguyễn Nghi làm phó sứ sang nhà Minh. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa đông, tháng 11, sai chánh sứ là Trần Hữu Lễ và Dương Trí Trạch, phó sứ là bọn Nguyễn Kinh Tế, Bùi Bỉnh Quân, Nguyễn Nghi, Hoàng Công Phụ chia làm hai sứ bộ sang tuế cống nhà Minh”. Sau ba năm, Nguyễn Nghi và đoàn sứ bộ hoàn thành nhiệm vụ và trở về an toàn, triều đình đã sai các quan đón tiếp trọng thể . Qua đó đã cho thấy trọng trách và nhiệm vụ đi sứ của các sứ thần rất được triều đình coi trọng và quan tâm.
Bia Tiến sĩ khoa thi năm 1619 có khắc họ tên quê quán Tiến sĩ Nguyễn Nghi
Trở về từ nhiệm vụ quốc gia, ông được triều đình tiếp tục giao phó những trọng trách quan trọng hơn. Năm 1645, ông được thăng Thượng thư bộ Lễ, gia Thiếu bảo, tước Dương quận công, rồi được coi việc ở tòa Kinh diên, kiêm Đông Các đại học sĩ, Tế tửu (Hiệu trưởng) Quốc Tử Giám – một vị trí phụ trách giáo dục và đào tạo nhân tài cho đất nước.
Trong những năm tháng cống hiến cho nền giáo dục, Nguyễn Nghi làm giám khảo cho các khoa thi Tiến sĩ, như khoa Bính Tuất (1646) và Canh Dần (1650). Trong những kỳ thi này, ông đảm nhiệm chức vụ Tri Cổng cử, tức quyền hạn và trách nhiệm tương đương với Phó ban giám khảo, có tiếng nói quan trọng, tư vấn về mặt chuyên môn cho vị Trưởng ban giám khảo về việc lấy đỗ hay đánh trượt từng thí sinh tham dự cuộc thi. Ở vai trò này, Nguyễn Nghi không chỉ là một nhà quản lý, mà còn là một nhà giáo dục tâm huyết, tận tụy với việc đào tạo, bồi đắp nhân tài cho đất nước.
Năm 1653, Nguyễn Nghi được thăng Thượng thư Bộ Lại, quản lý công việc quan tước, chọn xét, thăng giáng các vị trí quan còn khuyết trong triều, hay xét cấp bổng lộc quan chức...
Năm 1657, sau nhiều năm cống hiến không mệt mỏi cho triều đình và giáo dục, Nguyễn Nghi qua đời ở tuổi 70, để lại bao nỗi tiếc thương cho những người đã từng biết đến ông. Vua Lê kính trọng đã ban tặng ông chức Thái phó, ban thuỵ hiệu là Cung Ý. Sử sách còn ghi nhận “Nghi cùng cha là Thực được tiến cử cùng một lúc, làm quan trong sạch, thận trọng, trải các chức quý hiển mà chỉ chuộng thanh liêm, giản dị, chăm lo việc bồi dưỡng nhân tài. Người đương thời ai cũng kính trọng” . Ông thực là niềm tự hào lớn của quê hương, đất nước, là tấm gương sáng cho bao lớp học trò noi theo.
AV
-------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, Quyển XVIII, Ngô Sĩ Liên, dịch giả: Viện KHXH Việt Nam, NXB Khoa học xã hội – Hà Nội, 1993;
2. Lịch chiều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú, Tập 1, Dịch giả: Viện sử học, NXB Giáo dục – 1960;
3. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Tế tửu, tư nghiệp Quốc Tử Giám Thăng Long – Hà Nội, Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám, năm 2015;
4. Văn Miếu – Quốc Tử Giám và 82 bia Tiến sĩ Thăng Long – Hà Nội, Ngô Đức Thọ chủ biên, Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám, năm 2002, Văn bia Tiến sĩ khoa thi năm 1619, năm 1646 và năm 1650.
TRẠNG NGUYÊN PHẠM ĐÔN LỄ (1457 –?)
Phạm Đôn Lễ, nguyên quán làng Hải Triều, huyện Ngự Thiên - nay thuộc xã Phạm Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Năm 27 tuổi ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Tân Sửu niên hiệu Hồng Đức 12 (1481) đời vua Lê Thánh Tông. Từ thi Hương, thi Hội đến thi Đình, ông đều đỗ đầu, người đương thời gọi ông là Tam nguyên Đôn Lễ.
Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ làm quan đến chức Tả thị lang (sau Thượng thư). Sau này được cử đi sứ, ông học được cách dệt chiếu mới của người phương Bắc. Khi về nước, ông đã dạy cho dân làng và các vùng duyên hải. Ở làng Hải Triều, trước đây khi dệt chiếu dùng bàn dệt đứng, không có ngựa dỡ sợi. Ông đã cho áp dụng kỹ thuật dệt theo bàn dệt nằm có ngựa đỡ sợi dọc. Sợi dây giữ cói được căng, chiếu dệt ra đều sợi và đẹp hơn. Chiếu làng Hải Triều thoát nước nhanh, mau khô, chiếu được dệt những họa tiết như chữ Thọ, bông hoa, rồng, phượng…đường biên của chiếu rất bền và đẹp. Chiếu Hải Triều nhờ thế mà nổi tiếng khắp kinh đô. Nhiều người cũng vì nhờ nghề ấy làm kế sinh nhai.
Sau khi mất, người dân Hải Triều đã lập đền thờ ông, suy tôn ông là phúc thần và tôn xưng ông là “Trạng Chiếu”.
Ngày nay, đến tham quan di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám, du khách có thể chiêm ngưỡng tấm bia đề danh Tiến sĩ khoa Tân Sửu (năm 1481), trên đó có khắc họ tên, quê quán của Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ.
Tài liệu tham khảo:
- Việt sử cương mục tiết yếu, Đặng Xuân Bảng, tr 368, 2000.
- Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 3
- Chuyện đi sứ - Tiếp sứ thời xưa, Nguyễn Thế Long
- Các nhà khoa bảng Việt Nam.
Thúy Hồng
TÌM HIỂU 3 VỊ TAM KHÔI KHOA MẬU TUẤT NIÊN HIỆU HỒNG ĐỨC 9 (1478)
Khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức 9 (1478) là khoa thi lấy đỗ được nhiều nhất các vị Tiến sĩ, 62 người. Có 3 người đỗ đầu (tam khôi) của khoa thi này. Đó là Bảng nhãn Lê Quảng Chí, Thám hoa Trần Bích Hoành và Lê Ninh.
Bảng nhãn Lê Quảng Chí (1454 -?) là người xã Kỳ Phương, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. 25 tuổi, ông đỗ Đình nguyên, Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh, Bảng nhãn (đỗ đầu) khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức 9 (1478) đời vua Lê Thánh Tông. Sau khi thi đỗ, ông làm quan và trải qua nhiều chức vụ quan trong triều đình. Mùa hè năm Ất sửu (1505), ông được bổ chức Đông các đại học sĩ (đứng đầu cơ quan văn học của triều đình, phụng mệnh vua các bài chế, chiếu, biểu vua ban sửa chữa). Đến năm Kỷ Tỵ (1509), ông được thăng Tả thị lang bộ Lễ, đứng đầu Hàn lâm viện (chức quan sau Thượng thư, lo việc lễ nghi, tế lễ, giám sát việc giáo dục, thi cử). Ông làm quan ở triều 32 năm. Sau khi mất, ông được thăng chức Thượng thư (tương đương Bộ trưởng), được phong phúc thần. Tác phẩm của ông hiện còn 6 bài thơ chữ Hán chép trong Toàn Việt thi lục.
Thám hoa Trần Bích Hoành (1452 -?) là người xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà. Năm 27 tuổi, ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa) (đỗ thứ hai) khoa Mậu tuất niên hiệu Hồng Đức 9 (1478) đời Lê Thánh Tông. Ông làm quan đến chức Đông các (những lời vua ban, truyền về việc quan trọng của triều đình, phụng mệnh vua ban sửa chữa).
Thám hoa Lê Ninh (1448-?) người xã Liên Châu, huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú. Ông nội Lê Hiến. 31 tuổi, ông đỗ Hội nguyên, Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa), (đỗ thứ hai) đời Lê Thánh Tông. Từng được cử đi sứ. Ông làm quan đến chức Hộ bộ Tả thị lang, kiêm Vương phó. Khi mất được tặng chức Thượng thư (Bộ trưởng).
Tên tuổi và quê quán của 3 vị tam khôi được khắc trên bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Mậu Tuất 1478 hiện lưu giữ tại di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Bia đề danh Tiến sĩ khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức 9 (1478) tại di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Thúy Hồng
TAM KHÔI KHOA QUÝ MÙI NIÊN HIỆU QUANG THUẬN 4 (1463)
Khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận 4 (1463), hiện có bia dựng trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám, lấy đỗ được 44 vị Tiến sĩ. Trong đó ba vị tam khôi (đỗ đầu của khoa thi) đều là những bậc hiền tài. Sau khi thi đỗ, họ đã đem tài năng của mình ra phò vua, giúp nước.
Trạng Nguyên Lương Thế Vinh (1441-?) là người làng Cao Hương, huyện Thiên Bản (Nam Định), nổi tiếng là thần đồng. Ông đỗ Trạng nguyên khi mới 22 tuổi dưới triều vua Lê Thánh Tông.Trước đó, Hoàng thái hậu Quang Thục có mộng thấy đến chỗ thượng đế. Thượng đế cho bà một tiên đồng làm con nối dõi và một tiên đồng giúp việc. Không bao lâu sau bà mang thai và sinh ra vua Thánh Tông. Đến khoa thi Quý Múi niên hiệu Quang Thuận 4 (1463), khi ông đỗ trạng nguyên, thái hậu nhận ra hình dáng ông giống như đồng tử thấy trong mộng, bà nói với vua và vua cũng cho là chuyện lạ. Vua rất thích văn chương của ông, nên cho ông thường xuyên ở gần mình để giúp việc thư từ.
Ông làm quan được thăng giữ chức Hàn lâm viện Thị giảng, rồi giữ quyền Cấp sự trung Công khoa. Trong thời Hồng Đức, ông được thăng chức Thị thư viện Hàn lâm, kiêm nhiệm cả Sùng văn quán và Tú lâm cục. Mọi công việc giao thiệp với nước ngoài đều do ông soạn thảo, tiếng tăm vang đến Trung Quốc, người Minh khen ngợi nước ta có người tài giỏi.
Lương Thế Vinh đọc rất nhiều sách và học hỏi rộng rãi. Ông được giữ chức Sái phu tao đàn, tự đặt hiệu là Thụy Hiên. Ông soạn ra quyển Đại thành toàn pháp Trong lĩnh vực giáo dục của nhà chùa, ông cũng biên soạn nhiều sách. Sau khi mất, ông được tôn làm phúc thần trong làng.
Bảng Nhãn Nguyễn Đức Trinh (1439 – 1472) là người làng An Giới, huyện Thanh Lâm (nay thuộc xã An Sơn, huyện Nam Sách, Hải Dương). Năm 25 tuổi ông đỗ Bảng nhãn. Ông làm quan đến Phó đô Ngự sử. Khi đi sứ sang nhà Minh để thương thảo về quan hệ với Chiêm Thành, trên đường đi không may ông lâm bệnh qua đời. Ông mất vì việc nước và được truy tặng Thượng thư.
Thám Hoa Quách Đình Bảo (1440 - ?) là người xã Phúc Khê, huyện Thanh Lan (nay là xã Thái Phúc huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình). Ông đỗ Thám hoa khi mới 24 tuổi.
Năm Hồng Đức, Canh Dần (1470), ông sang sứ Minh và tâu mọi việc. Khi về, ông được ban đến chức Lại bộ Thượng thư kiêm Đô ngự sử. Năm Hồng Đức, Quý Mão (1483), ông cùng Thân Nhân Trung biên soạn Thiên Nam dư hạ tập và Thân chinh ký sự. Không lâu sau, ông được thăng Thượng thư bộ Lễ, kiêm các chức vụ cũ, khi đó ông 44 tuổi.
Mùa thu Giáp Thìn (1484), ông được giao trông coi toàn bộ công việc dựng loạt bia Tiến sĩ đầu tiên ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long, xét tên tuổi những người đỗ tiến sĩ từ khoa Nhâm Tuất (1442) niên hiệu Đại Bảo, đến khoa Giáp Thìn (1484) để khắc bia dựng ở nhà Thái học. Năm Ất Tỵ (1485), ông được đổi sang Thượng thư bộ Hình. Quách Đình Bảo là anh của Quách Hữu Nghiêm, đỗ Hoàng giáp khoa Bính Tuất niên hiệu Quang Thuận 7 (1466). Hai anh em cùng làm quan đồng triều.
Cảm phục tài năng của ba vị tam khôi, nên khi vinh quy vua Lê Thánh Tông đã ban tặng lá cờ nhỏ thêu dòng chữ:
Trạng nguyên Lương Thế Vinh
Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh
Thám hoa Quách Đình Bảo
Thiên hạ cộng tri danh
Nghĩa là:
Trạng nguyên Lương Thế Vinh
Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh
Thám hoa Quách Đình Bảo
Thiên hạ đều nghe danh.
Khu vực bia Tiến sĩ bên Đông nơi có đặt tấm bia khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận 4 (1463)
LH
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM NGUYỄN BÁ KÝ - TIẾN SĨ KHOA THI NĂM MẬU THÌN NIÊN HIỆU THÁI HÒA 6 (1448)
Nguyễn Bá Ký (? – 1465) là người làng Viên Nội, huyện Chương Đức (nay là xã Viên Nội, huyện Ứng Hòa, Hà Nội). Ông đỗ Hoàng Giáp khoa Mậu Thìn năm Thái Hòa thứ 6 (1448) thời Lê Nhân Tông.
Ông từng được cử làm Phó sứ sứ bộ sang nhà Minh năm 1452, làm quan đến chức Thượng thư, hầu giảng ở tòa Kinh Diên. Thơ văn của ông rất được vua Lê Thánh Tông coi trọng nên thường được gần vua.
Sử sách có ghi chép lại việc ông đã dâng sớ khuyên can nhà vua khi thấy vua làm văn không chú ý tới kinh. Vua dụ rằng:“Trẫm vừa xem hết tờ sớ, ngươi bảo là trẫm không chú ý kinh, sử, lại chuộng lối học phù hoa vô dụng, chỉ ngụ ý ở ngoài mây khói. Nếu ta ưa chuộng văn hoa, không lấy gốc kinh, sử, thì còn sách nào nữa? Ta tự xét mình, xét lời ngươi nói, thì trong bốn chữ “phù hoa vô dụng” kia, thực đã gồm cả lòng trung rồi, thế mà ta lại làm văn mà biện lại, thì ta thực có lỗi. Lúc ấy, ngươi đã kịp thời can ngăn, chẳng vì thế mà giữ ý”. Sau ông được thăng Tế tửu Quốc Tử Giám, kiêm Đại học sĩ viện Văn Minh.
Năm 1463, khi đang là Tế tửu Quốc Tử Giám, ông được giao nhiệm vụ là một trong những vị quan giám khảo khoa thi năm 1463. Đây là hai chức vụ thường được triều đình tuyển chọn từ những vị quan đại thần tài đức, học vấn tinh thông.
Tháng 11 năm Ất Dậu (1465), Nguyễn Bá Ký mất. Vua thương tiếc sai Tư lễ giám quan Phạm Hổ đem sắc đến dụ rằng: “Ngươi thờ vua trung thành, giữ mình chính trực, sớm tối ở bên ta, nay đã được sáu năm, lúc thoi thóp rồi mà lòng trung vẫn mãi chưa thôi!”.
Nguyễn Bá Ký là một trong 27 vị đại khoa của khoa thi năm 1448 đã đem tài năng của mình góp phần xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị.
LH
NHỮNG VỊ TIẾN SĨ KHOA THI NĂM 1442 TỪNG LÀM TẾ TỬU, TƯ NGHIỆP QUỐC TỬ GIÁM
Khoa thi năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo 3 (1442) lấy đỗ được 33 vị Tiến sĩ. Sau khi thi đỗ, họ đã có nhiều đóng góp cho đất nước trên nhiều lĩnh vực: chính trị, lịch sử, giáo dục…
Trong đó phải kể đến bốn vị Tiến sĩ đã góp phần vào việc giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước. Với cương vị là những người đứng đầu Quốc Tử Giám – trường quốc học đầu tiên, họ không chỉ là những người thầy đáng kính, đồng thời còn là những nhà quản lý giáo dục tài năng, những vị quan đại thần có tài kinh bang tế thế, đức cao vọng trọng.
Nguyễn Trực là người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai (nay là thôn Song Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội). Với kiến thức học rộng, tài cao, Nguyễn Trực đã đem hết tài năng của mình ra phò Vua, giúp nước. Nguyễn Trực từng vâng mệnh đi sứ Trung Quốc, tài ứng đối khôn lường của ông khiến nhà Minh vị nể, khen tặng là Lưỡng quốc Trạng nguyên. Nguyễn Trực không chỉ là một vị quan thanh liêm, một nhà chính trị xuất sắc, thường được vua mời tham gia nghị bàn những việc cơ mật của triều đình mà còn là một nhà giáo ưu tú của đất nước. Năm Hồng Đức thứ 4 (1473), ông được thăng Gia hạnh đại phu, Thừa chỉ viện Hàn lâm, kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám, trở thành người đứng đầu trường Quốc học lớn nhất đất nước. Ông là một nhà thơ danh tiếng, một thành viên ưu tú của Hội Tao đàn, được Vua và quần thần kính trọng. Tương truyền mỗi khi vua Lê Thánh Tông làm xong một bài thơ mới thường đưa cho ông xem trước để ngâm vịnh.
Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ (1424 -1525) là người xã Đại Lan, huyện Thanh Đàm, trấn Sơn Nam (nay là thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Nguyễn Như Đổ làm quan trải 8 triều vua đầu thời Lê, là vị quan chính trực, liêm cẩn. Năm 1462, sứ thần nhà Minh là Hàn lâm học sĩ Tiền Phổ nổi tiếng là người thích tranh luận và hay bắt bẻ đi sứ sang nước ta. Là người học rộng tài cao, Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ đã được vua Lê Thánh Tông giao trọng trách tiếp sứ thần nhà Minh. Trong 12 ngày được Nguyễn Như Đổ đón tiếp, vị sứ thần nhà Minh đã rất khâm phục tài cao học rộng của ông. Với học vấn uyên thâm, ông được giao các nhiệm vụ quan trọng trong nhiều kỳ thi chọn Tiến sĩ. Năm 1486, ông được vua Lê Thánh Tông tín nhiệm cử kiêm giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám. Ông giữ chức vụ đứng đầu trường Quốc Tử Giám trong hơn 10 năm rồi về trí sĩ. Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Như Đổ mất khi ông ngoài trăm tuổi, ông được đời sau ca ngợi là một nhân tài hiếm có trong lịch sử nước ta.
Tiến sĩ Ngô Sĩ Liên sinh ra tại làng Chúc Lý, huyện Chương Đức, phủ Ứng Thiên nay là thôn Chúc Lý, xã Ngọc Hòa, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Ngô Sĩ Liên đỗ đầu hàng Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Sau khi thi đỗ, ông được cử giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình. Đời Lê Thánh Tông (1460-1497) ông từng giữ chức Lễ bộ Hữu Thị lang,chức quan đứng hàng thứ 2 sau Thượng thư. Bộ Lễ là bộ chuyên công việc về lễ nghi, tế tự, yến tiệc, trường học, thi cử, áo mũ, ấn dấu, chương tấu, bài biểu, đi sứ. Năm Quang Thuận thứ 12 (1471), vua Lê Thánh Tông lấy Ngô Sĩ Liên vào làm Sử quan tu soạn, người chịu trách nhiệm trực tiếp biên soạn sử trong Quốc sử viện, cơ quan giữ công việc về biên soạn sử sách. Năm Hồng Đức 10 (1479), bộ Quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư mà ông biên soạn đã hoàn thành. Trong thời gian ông làm Tu soạn ở Viện quốc sử, ông còn giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Tư nghiệp là chức quan thứ hai ở Quốc Tử Giám, sau Tế tửu và là quan chịu trách nhiệm chính đối với chương trình dạy, học ở Quốc Tử Giám. Quốc Tử Giám Tư nghiệp kiêm Quốc sử Tu soạn Ngô Sĩ Liên nghỉ hưu và mất tại quê nhà. Dân làng kính trọng, lập đền thờ ông.
Tiến sĩ Phan Viên là người xã Bàn Thạch, huyện Thạch Hà, nay là huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Không có nhiều tư liệu lịch sử ghi chép về ông, chỉ biết sau khi thi đỗ, ông giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám. Nhưng để giữ trọng trách trong việc quản lý cơ quan giáo dục lớn nhất phải là người có tài năng và đức hạnh. Ông hẳn đã mang tài học góp phần vào việc việc đào tạo, rèn tập học trò tại ngôi trường này. Con trai ông là Phan Ứng Toản cũng đỗ Tiến sĩ khoa thi năm 1481 và cũng từng giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám.
Khoa thi năm 1442 là khoa thi đầu tiên được dựng bia đề danh tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám cách đây đúng 540 năm. Tên tuổi của các vị Tiến sĩ khắc trên bia còn lưu danh đến muôn đời sau.
LH
TRI QUỐC TỬ GIÁM NGUYỄN NGHIỄM VỚI VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM THĂNG LONG
Nguyễn Nghiễm tên là Thiều, tự là Hy Tư, hiệu là Nghị Hiên, sinh năm Mậu Tý (1708), tại xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông là cha đẻ của đại thi hào Nguyễn Du. Nguyễn Nghiễm có mối liên hệ khăng khít, tương hỗ với Văn Miếu - Quốc Tử Giám, không chỉ là người được Quốc Tử Giám đào tạo, mà còn là người đã góp phần làm hưng thịnh trường quốc học này.
Năm Canh Tý (1720), khi mới 12 tuổi, ông đã đỗ đầu kỳ khảo hạch ở huyện Nghi Xuân, và đến năm Giáp Thìn (1724), tức 4 năm sau, ông đỗ Hương cống tại trường thi Nghệ An. Sau khi thi đỗ Hương cống, theo quy định bấy giờ, ông được sung làm giám sinh Quốc Tử Giám. Gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền cho biết, trong thời gian học tập tại Giám, ông nổi tiếng khắp kinh đô trong các cuộc khảo hạch thường kỳ (tiểu tập) và đại tập. Năm Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 3 (1731), Nguyễn Nghiễm đỗ thứ 2 hàng đệ nhị giáp (Hoàng giáp). Khoa thi này chỉ có 12 người đỗ, trong đó chỉ có 3 Giám sinh đỗ khoa này. Một năm sau đó, lần đầu tiên tên ông được khắc trên bia đặt tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Lần thứ hai, tên ông được ghi trên bia tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám là vào vào năm Giáp Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng 15 (1754) với cương vị là Giám thí kỳ thi Hội năm này. Trong một kỳ thi, chức Đề điệu là chức quan đứng đầu chịu trách nhiệm toàn bộ công việc của kỳ thi và trường thi, còn Giám thí và Tri cống cử là chức quan thứ hai, giúp việc cho Đề điệu, như vậy, Nguyễn Nghiễm lúc bấy giờ giữ cương vị như phó chủ khảo trường thi Hội.
Lần thứ ba, tên ông được ghi trên bia ở Văn Miếu- Quốc Tử Giám là vào năm 1763. Theo lệnh vua, ông soạn bài ký để khắc bia cho khoa thi Tiến sĩ năm 1760. Tấm bia này được dựng vào tháng 2 năm Quý Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 24 (1763). Theo như trên bia: “Chính tiến sĩ khoa Tân Hợi Nhập thị tham tụng Thiếu bảo công Bộ thượng thư kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu nhập thị kinh diên Xuân Nhạc hầu Nguyễn Nghiễm”. Như vậy vào năm 1763 ông đã được phong là Công bộ thượng thư, Tham tụng, và đây cũng là lần đầu tiên thấy xuất hiện chức Quốc Tử Giám Tế Tửu.
Bài ký bia tiến sĩ thứ 2 ông phụng mệnh soạn là bài ký cho khoa thi năm Bính Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 27 (1766). Lần này ông ký tên với chức vụ “Chính tiến sĩ khoa Tân Hợi, Nhập thị tham chính Công bộ thượng thư Thái tử Thái bảo Xuân nhạc hầu Nguyễn Nghiễm vâng sắc soạn”.
Còn một tấm bia tiến sĩ nữa có tên Nguyễn Nghiễm, đó là tấm bia được dựng tháng 10 năm Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769) cho khoa thi tiến sĩ được tổ chức cùng năm (1769), nhưng với vai trò là người nhuận sắc với chức vụ “Tiến sĩ khoa Tân Hợi, Nhập thị Bồi tụng, Công Bộ Thượng thư tri Quốc Tử Giám, Trung thư giám Thái tử thái phó Xuân quận công Nguyễn Nghiễm vâng sắc nhuận”. Thông thường, tác giả của những bài ký trên bia do Vua chỉ định soạn đều là những người có tài văn chương, có khả năng sáng tác, thể hiện được hết ý của đương triều về lý tưởng, chính trị… Họ đều là các bậc đại thần, tinh thông Nho học. Qua điều này, và cả chức vụ của Nguyễn Nghiễm, để thấy rằng việc soạn văn bia vừa là trách nhiệm nặng nề, đồng thời là vinh dự lớn lao của những bậc đại thần xứng đáng đương thời, trong đó có Nguyễn Nghiễm.
Khi được cử giữ Tri Quốc Tử Giám, Nguyễn Nghiễm đã dốc tâm vào củng cố và ổn định trật tự nhà Giám cũng như việc mở mang, biểu dương nền giáo dục Nho học. Việc đầu tiên ông làm - cũng là tuân theo ý chỉ của bề trên là nêu cao kỷ cương, biểu dương Nho phong. Năm Mậu Tý (1768), ông đã làm bức hoành phi lớn với 4 chữ “Cổ kim nhật nguyệt” và trao cho Văn Miếu- Quốc Tử Giám để thể hiện, khẳng định vai trò của Văn Miếu - Quốc Tử Giám cũng như nền giáo dục đương thời, như mặt trời, mặt trăng soi rọi ánh sáng mãi mãi. Bức hoành phi hiện đang được treo tại đầu hồi Bái Đường Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Đây cũng là mong muốn, nguyện vọng của ông.
Cũng trong năm này, ông đã xin phép đúc 4 quả chuông nhỏ, 1 quả chuông lớn. Đây quả là một việc lớn, sau khi được phép, ông cùng Vũ Miên và Nguyễn Lệ (Khản) lúc đó là những học quan trực tiếp tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Vũ Miên, Nguyễn Lệ đều là Tế tửu) tổ chức việc đúc chuông. Rất tiếc, 4 quả chuông nhỏ hiện không còn, quả chuông lớn (Bích Ung đại chung) đang được treo tại nhà Bái Đường, và vẫn được thỉnh lên trong các dịp tổ chức dâng hương các vị Tiên thánh, tiên hiền tại Văn Miếu.
Chỉ bằng 2 việc Nguyễn Nghiễm làm tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám trong một năm đã cho thấy ông đã tâm huyết thế nào với cửa Khổng, sân Trình này: ông muốn chấn chỉnh, phát triển nền văn trị nước nhà. Không chỉ có thế, nhận thấy sự lộn xộn trong sinh hoạt tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám lúc bấy giờ, ông đã quyết tâm chấn chỉnh lại. Năm 1771, ông tâu xin Chúa Trịnh cho ổn định lại quy chế nhà Giám. Đại việt sử ký tục biên ghi: “Mùa thu, tháng 7, Nguyễn Nghiễm tâu: Lệ cũ, đất công thuộc Quốc Tử Giám, chia cấp cho quan văn ở. Gần đây, nhiều viên khác đến ở nhờ rồi lại đem bán cho người khác. Nay xin khôi phục thể lệ cũ". Lệ cũ ông nói đến ở đây là theo lời khải của Tham tụng Nguyễn Danh Thực vào năm 1693 và đã được chúa ân chuẩn “Ngày nay Quốc Tử Giám nên đặt quan kiêm nhiệm, nên lựa chọn các Tế tửu, Tư nghiệp và Giáo thụ ngũ kinh học chánh, cho họ ở tại nhà Giám để ngày thường hướng dẫn học tập, khiến [việc đào tạo] nhân tài có được thành tựu, cung cấp người cho Nhà nước dùng”.
Quốc Tử Giám vừa là nơi rèn đúc, đào tạo ra một con người có học thức, trí tuệ để đóng góp cho sự phát triển nền giáo dục của nước nhà, vừa là nơi gửi gắm thể hiện tâm tư nguyện vọng về thời cuộc, xã tắc của danh nhân Nguyễn Nghiễm.
LH
LÊ VĂN THỊNH – BẬC KHAI KHOA CỦA NỀN KHOA BẢNG VIỆT NAM
Lê Văn Thịnh (1050 - ?) người làng Đông Cứu, huyện Gia Định (nay là làng Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Thuở nhỏ, ông được cha dạy dỗ, văn thơ, kinh truyện đều giỏi. Lê Văn Thịnh dạy lại cho bạn bè và người làng, nên được mọi người quý mến.
Lê Văn Thịnh nổi tiếng thông minh, học đến đâu nhớ đến đấy. Ông chăm học, ham đọc sách, thường chong đèn đọc sách đến khuya. Nhờ chuyên cần nên năm 13 tuổi, Lê Văn Thịnh đã nổi tiếng là người thông kinh sử, hiểu biết rộng. Năm 18 tuổi, ông dời đến sống ở làng Chi Nhị (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) và mở lớp dạy học ở đây, dân trong vùng biết tiếng ông nên cho con theo học rất đông.
Năm 1075, vua Lý Nhân Tông cho mở khoa thi “Minh kinh bác học và Nho học tam trường” – cũng là khoa thi Nho học đầu tiên của nước ta. Lê Văn Thịnh đỗ đầu khoa thi này, trở thành bậc khai khoa của nền khoa bảng Việt Nam, được vào hầu vua (Lý Nhân Tông) học. Sau đó, Lê Văn Thịnh được cử giữ chức Nội cấp sự, rồi thăng Thị lang Bộ Binh.
Năm 1084, Lê Văn Thịnh đang giữ chức Thị lang Bộ Binh được vua sai đến trại Vĩnh Bình để cùng với người Tống bàn việc cương giới. Trong những lần hội đàm với nhà Tống, đại diện cho Đại Việt, ông đã trả lời một cách cứng cỏi, đầy đủ lập luận sắc bén. Nhà Tống đã buộc phải trả cho nhà Lý 6 huyện và 3 động ở Cao Bằng mà không mất một mũi tên, một giọt máu! Đây là lần duy nhất cương thổ Đại Việt ta đòi lại được bằng con đường ngoại giao. Năm 1085, Lê Văn Thịnh được phong chức Thái sư – chức quan đại thần cao nhất trong triều. Trong 12 năm ông giữ chức Thái sư, đất nước thái bình vô sự, tù phạm được khoan giảm án phạt, nông phu được miễn giảm thuế khóa.
Tháng 8 năm 1086, Lê Văn Thịnh được vua giao cho mở khoa thi Nho học tuyển người hiền tài. Với cương vị là Thái sư, Lê Văn Thịnh đề xuất với vua cho quy hoạch chùa thành ba hạng là đại, trung và tiểu danh lam, đồng thời bổ các quan văn nho học kiêm chức trông coi các chùa. Năm 1089, ông tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, thu gọn các chức quan văn võ, quan hầu vua và các chức tạp lưu nhằm đảm bảo hiệu quả với công việc. Năm 1092, ông còn cho xác định sổ ruộng của các làng xã, các hộ nông dân.
Năm 1096, ông bị vu oan tội “hóa hổ giết vua”, bị khép tội “mưu phản” bị đày đi Thao Giang, rồi mất ở đó. Vụ án của ông là một án kiện lớn, nhưng chỉ thấy sử sách ghi lại một cách lờ mờ. Sau khi Lê Văn Thịnh mất, quý trọng tài đức của ông, nhân dân Đình Tổ đã tôn ông làm Thành Hoàng làng. Tại quê nội, quê ngoại của ông và nhiều làng khác cũng tôn ông làm Thành Hoàng làng.
(Ảnh: Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh bacninh.gov.vn)
Tham khảo:
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên… soạn thảo (1272 – 1697), Viện Khoa học Xã hội Việt Nam dịch, NXB Khoa học Xã hội (Hà Nội), 1993.
2. Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919), Ngô Đức Thọ chủ biên, NXB Văn học, 2006.
Tượng thờ Thái sư Lê Văn Thịnh – bậc khai khoa của các nhà khoa bảng Việt Nam tại Đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh (huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh)
Đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh (huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh)
An Nhiên
VUA LÝ NHÂN TÔNG QUA TRƯNG BÀY KHƠI NGUỒN ĐẠO HỌC
Tại nhà Thái học khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám đang có trưng bày “Khơi nguồn đạo học” kể về cuộc đời, sự nghiệp và những đóng góp to lớn của những danh nhân “khơi nguồn đạo học” cho nước Việt, trong đó có vua Lý Nhân Tông, bậc vua giỏi của triều Lý.
Vua Lý Nhân Tông (1066-1128) là vị vua thứ tư của triều Lý, là con trai của vua Lý Thánh Tông và Nguyên phi Ỷ Lan, là người có đóng góp to lớn cho hệ thống đào tạo và trọng dụng hiền tài.
Thông qua các tư liệu, hiện vật được trưng bày tại đây có thể thấy vua Lý Nhân Tông là người thông tuệ và sáng suốt, vị hoàng đế minh triết, sùng đạo Phật, coi trọng Nho giáo, đặc biệt có nhiều đóng góp to lớn cho việc giáo dục, đào tạo và trọng dụng nhân tài của đất nước Việt Nam.
Vua Lý Nhân Tông là học trò đầu tiên vào học tại Văn Miếu. Sử cũ có chép: “Năm 1070, Thái tử Càn Đức đến Văn Miếu học giáo lý của Nho giáo. Ông là vị học trò đầu tiên được học tại Văn Miếu.”
Năm 1075, vua Lý Nhân Tông cho mở khoa thi đầu tiên trong lịch sử khoa cử nho học nước ta để chọn Minh kinh bác học. Người đỗ đầu khoa thi này là Lê Văn Thịnh, được coi là người khai khoa của nước nhà. Năm 1076, vua lập Quốc Tử Giám - trường quốc học đầu tiên, chọn quan viên văn chức, người nào biết chữ cho vào Quốc Tử Giám. Qua đó cho thấy, vua Lý Nhân Tông là người đã đặt nền móng cho sự phát triển Nho giáo ở Việt Nam, là người khởi đầu cho nền giáo dục khoa cử, trọng dụng hiền tài, đóng góp vào việc xây dựng văn hóa nước nhà.
Năm 1077, vua lại cho tổ chức thi Lại viên, chọn nhân viên làm công việc giấy tờ trong các cơ quan của triều đình. Năm 1086, vua cho tổ chức khoa thi văn học đầu tiên và Mạc Hiển Tích đỗ đầu khoa này, được chọn vào làm việc tại Hàn lâm viện. Đến năm 1087, vua xuống chiếu thành lập Bí thư các làm nơi lưu trữ sách.
Bên cạnh việc khuyến khích giáo dục Nho học, Vua Lý Nhân Tông cũng là một Phật tử mộ đạo. Ông và Thái hậu Linh Nhân đã cho dựng nhiều chùa tháp trong nước, như: chùa Đại lâm Sơn, chùa An Lão, chùa Vĩnh Phúc…
Năm 1075, Vua Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt và Tôn Đản lĩnh 10 vạn quân chia làm 3 đạo đánh quân Tống (1075-1077). Chiến thắng trên phòng tuyến sông Như Nguyệt mở ra thời kỳ độc lập lâu dài cho dân tộc.
Được người dân yêu quý, Lý Nhân Tông đã đưa đạo Phật nhập thế phục vụ đời sống xã hội, đồng thời áp dụng nhiều biện pháp để cải thiện hiệu quả lao động trong nông nghiệp như đào kênh tưới tiêu, đắp đê chống lũ, cấm giết trâu bò để ăn thịt, làm kho chứa nông sản. Tại trưng bày, có giới thiệu đoạn ghi chép trong Việt sử lược (Nxb Thuận Hóa, 2005, tr.1111): “Năm Đinh Tỵ (1077),.. Mùa thu tháng 9, đắp đê ở sông Như Nguyệt dài 67.380 bước. Cho đào kênh, vét sông, dẫn nước làm nông nghiệp, sửa chữa và xây dựng hệ thống đê ngăn lũ. Lý Nhân Tông cũng nhiều lần xuống chiếu cấm giết trâu ăn thịt, ai vi phạm sẽ bị trị tội theo pháp luật. Đoạn trích trong Đại Việt sử ký toàn thư, (tập 1, Nxb KHXH, 1988, tr.287) giới thiệu tại trưng bày ghi: “Kẻ nào mổ trộm trâu thì phạt 80 trượng, đồ làm khao giáp, vợ xử 80 trượng, đồ làm tang thất phụ và bồi thường trâu, láng giềng biết mà không tố cáo, phạt 80 trượng.”
Ông tôn trọng các lễ nghi và thực hành tế lễ, coi trọng các nhà sư, đạo sĩ, nghệ sĩ và trí thức. Lý Nhân Tông còn trực tiếp sáng tác nhạc, thơ ca. Vua Lý Nhân Tông được đương thời ca ngợi như “tóm muôn hoa của thơ trời, nhạc phổ hoà âm thanh của nhà Phật”. Đời sống nghệ thuật dưới triều vua Lý Nhân Tông thật phong phú và đa dạng. m nhạc với ca từ đẹp đẽ, giai điệu ngân nga, trầm bổng, vũ điệu uyển chuyển, duyên dáng thể hiện rõ một đất nước rất thanh bình, thịnh trị.
Phong cách thiết kế hiện đại, hấp dẫn, thông qua các thông tin, tư liệu lịch sử, Trưng bày “Khơi nguồn đạo học” đã khắc hoạ một cách đầy đủ, rõ nét nhất cuộc đời, sự nghiệp của vua Lý Nhân Tông, cũng như những đóng góp to lớn của ông với nền giáo dục của nước nhà
Tranh minh họa vua Lý Nhân Tông tại phòng Trưng bày do họa sĩ Nguyễn Thành Phong sáng tác
Vua Lý Nhân Tông cũng là người tôn sùng đạo Phật, nên dưới triều thịnh trị của ông, vua đã cho xây nhiều chùa tháp, đúc chuông tạc tượng với mong muốn tạo nên nhiều thắng cảnh đẹp cho đất nước. Vua coi trọng các lễ nghi và thực hành tế lễ, tôn trọng các nhà sư, đạo sĩ, nghệ sĩ và trí thức...
Thúy Hồng
THÁM HOA LƯƠNG NHƯ HỘC – ÔNG TỔ NGHỀ IN KHẮC GỖ Ở NƯỚC TA
Lương Như Hộc người xã Hồng Liễu, huyện Trường Tân xưa (nay là thôn Thanh Liễu, xã Tân Hưng, Hải Dương). Thời vua Lê, ông từng hai lần được cử đi sứ nhà Minh và học được nghề in khắc gỗ, về truyền dạy cho dân làng. Sau ông được dân tôn vinh là Tổ sư nghề khắc ván in sách.
Ngay từ nhỏ, Lương Như Hộc đã nổi tiếng thông minh, ham học, hiếu thảo. Năm 1442, ông đỗ Thám hoa đời vua Lê Thái Tông, tên của ông được lưu danh trên bia Tiến sĩ đặt tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Ông làm quan đến chức Đô ngự sử, là người có tài, được vua tín nhiệm cử đi sứ hai lần và đây chính là cơ duyên đưa ông đến với việc học nghề in mộc bản của Trung Hoa, tạo nên dấu ấn lớn nhất trong cuộc đời ông – đó là công lao với nghề in mộc bản của nước ta.
Tấm bia Tiến sĩ khoa thi năm 1442 lưu danh Thám hoa Lương Như Hộc tại Văn Miếu – Quốc tử Giám.
Đại Việt sử ký toàn thư có chép rằng, Lương Như Hộc được vua Lê 2 lần cử đi sứ nhà Minh. Lần đầu tiên vào năm 1443, “vua sai bọn Ngự sử trung thừa là Hà Phủ, Hàn lâm viện tri chế cáo Nguyễn Như Đổ, Ngự tiền học sinh cục trưởng Lương Như Hộc sang tạ ơn nhà Minh sang tế”. Lần thứ 2 nhà vua lại cử Lương Như Hộc cùng đoàn đi sứ sang nhà Minh cầu phong năm 1459.
Có giai thoại kể rằng, khi đi sứ, được thăm thú nhiều nơi, ông nhận thấy người nhà Minh làm nghề khắc chữ và in rất tinh xảo, ông đã nuôi chí muốn học nghề đó. Những lúc thư nhàn, ông cải trang thành thương gia, ở trọ gần các phường khắc chữ và in ấn, lặng lẽ học nghề. Suốt nhiều năm, dù gặp rất nhiều gian khó, nhưng với trí thông minh và lòng kiên trì, Lương Như Hộc đã nắm được tinh hoa của nghề khắc mộc bản và in ấn.
Khi về nước, ông truyền nghề cho hai làng Hồng Lục và Liễu Tràng, xã Hồng Liễu. Để nghề in được bén rễ và có cơ phát triển, ông còn chung sống cùng với những người thợ trong làng. Ông ngày ngày ngồi chỉ bảo cho họ từng li từng tí, dạy thợ chọn loại gỗ tốt và phù hợp để làm mộc bản như gỗ Thị, gỗ Mít, gỗ Táo…. Loại gỗ này mềm mỏng, dễ khắc, không bị cong vênh, mối mọt, lại có rất nhiều ở làng quê Việt Nam.
Ông hướng dẫn người thợ ngâm gỗ để độ co ngót được ổn định; rồi đến cách dùng dao cho phù hợp: dao nào để phạt gỗ, dao nào bào gỗ, dao nào gọt nét, dao nào khắc chữ… Kĩ thuật khắc chữ là khó nhất, vì phải khắc chữ ngược, khi in lên giấy mới thành chữ xuôi để đọc được. Vì vậy khâu in chữ cũng phải học, khâu đóng thành sách cũng phải học. Ở khâu nào ông cũng đều dạy rất tỉ mỉ, kĩ lưỡng… Nhờ đó nghề khắc bản in mộc dần trở nên đắc dụng ở quê ông.
Mộc bản - Hiện vật phục chế tại Trưng bày Quốc Tử Giám – trường Quốc học đầu tiên
Sau người làng Liễu Tràng gần bên cũng sang học, hai làng trở thành làng mở đầu nghề in nước ta, phát triển thịnh đạt. Tương truyền, vùa Lê Thánh Tông nhiều lần ban chiếu cho thợ Hồng - Liễu lên kinh thành để khắc mộc bản và in sách cho triều đình. Thời Hồng Đức, sách được in ra hàng loạt. Bởi thế văn thơ thời Hồng Đức rất phát triển, phổ biến trong đời sống. Nhiều pho sử, sách quan trọng của triều đình được phường Hồng - Liễu đảm nhiệm. Năm 1697, niên hiệu Chính Hòa thứ 18 đời Lê Hy Tông, thợ Hồng - Liễu đã khắc mộc bản và in bộ sách quan trọng bậc nhất của nước ta là cuốn Đại Việt sử ký toàn thư. Từ đó nghề in của hai làng càng nổi tiếng khắp nước, trong “Hải Dương phong vật khúc” có câu ca rằng:
“Phường Hồng Lục, Liễu Tràng khắc chữ.
Bản bộ kinh, bộ sử rành rành,
Văn phòng nấu sử sôi kinh.
Sẵn pho thư tịch, khoa danh nên tài…”
Trường Quốc Tử Giám xưa kia cũng là nơi được triều đình cho phép in sách dùng cho các học quan, giáo thụ và học trò học tập và nghiên cứu. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép: năm 1467 vua Lê Thánh Tông “ban cấp bản in sách Ngũ kinh của nhà nước cho Quốc Tử Giám”. Năm 1483, vua Lê Thánh Tông khi cho mở rộng nhà Thái Học, dựng Minh Luân đường, Giảng đường, ông cũng cho xây dựng kho Bí thư để in sách học cho học trò. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục đã mô tả kho Bí thư của Quốc Tử Giám có 4 gian dùng để cất ván in sách.
Năm 1734, triều đình kiểm soát kĩ hơn cả nội dung của sách học, giao cho các quan Quốc Tử Giám “hiệu đính kiểm duyệt năm Kinh theo bản khắc văn của Trung Quốc, rồi khắc thành sách; nay sách đã in xong ban bố cho trong nước, để theo đấy mà dạy học trò, cấm mua sách của Trung Quốc” .
Như vậy, thấy rõ, từ khi nghề in ấn của hai làng Hồng Lục và Liễu Tràng phát triển, thì vai trò xuất bản sách của triều đình nước ta càng rõ ràng hơn, việc sản xuất sách ở trong nước đã dễ dàng hơn trước kia rất nhiều. Đó là công lao to lớn của thám hoa Lương Như Hộc khi ông dày công học tập và truyền nghề cho dân làng, góp phần phát triển việc in ấn, giúp ích cho việc học tập và mở mang kiến thức cho nhân dân cả nước.
Sau khi Thám hoa Lương Như Hộc mất, dân hai làng Hồng Lục và Liễu Tràng nhớ ơn ông, lập đền thờ, tôn làm Tổ Sư. Triều đình cũng ban Sắc chỉ phong ông làm Phúc thần. Ngày nay, tại phường Tân Hưng, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương có một ngôi đình lớn, cổ kính, thờ Thành hoàng Lương Như Hộc. Trong đình lưu giữ nhiều hoành phi, câu đối ca ngợi công lao của ông, và nhiều sắc phong của các triều đại tôn vinh ông là Tổ sư nghề khắc ván in sách.
AV
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên, dịch giả Viện KHXH Việt Nam, NXB KHXH HN, 1993;
2. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Quốc sử quán triều Nguyễn, dịch giả Viện sử học, NXB Giáo dục – Hà Nội, 1998;
3. Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn
4. Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long Hà Nội, Nguyễn Quang Lộc, Phạm Thị Thúy Hằng, Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám, 2000.
LÝ THÁNH TÔNG – VỊ VUA KHAI SÁNG NỀN GIÁO DỤC NHO HỌC VIỆT NAM
Lý Thánh Tông (1023 - 1072), người châu Cổ Pháp, nay thuộc xã Đình Bảng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tên huý là Nhật Tôn, con trưởng của vua Lý Thái Tông. Năm 1028 được phong làm Đông cung Thái tử. Khi vua Lý Thái Tông băng hà, ông lên ngôi báu, ở ngôi 17 năm (1054 - 1072).
Lý Thánh Tông là vị vua sáng, có tinh thần tự lập, tự cường với nhiều hoài bão xây dựng đất nước thành một quốc gia hùng mạnh. Ngoài việc thực hiện nền chính trị nhân đạo và thân dân, Lý Thánh Tông còn có công khai sáng cho nền giáo dục Nho học Việt Nam với sự kiện thành lập Văn Miếu năm 1070 được Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Năm Canh Tuất niên hiệu Thần Vũ thứ 2 (1070) mùa thu, tháng 8 làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế, Hoàng Thái tử đến học ở đây".
Ông là vị vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về người ở xa, an ủi người gần, tôn sùng đạo học, định rõ chế độ, văn sự thi hành mau chóng bên trong, phía Nam bình Chiêm, phía Bắc đánh Tống, uy vũ hiển hách bên ngoài. Ông là một trong những bậc vua hiền nước ta.
Tham khảo: Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long – Hà Nội, Trung tâm Hoạt động VHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
An Nhiên
THÁM HOA PHAN KÍNH - NHÀ CHÍNH TRỊ NGOẠI GIAO TÀI NĂNG THẾ KỶ XVIII
Phan Kính (1715 - 1761) tự là Dĩ Trực, hiệu Tĩnh Trai, quê làng Vĩnh Gia, xã Lai Thạch, huyện La Sơn (nay là xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh). Năm 29 tuổi, ông đỗ Đình nguyên (đỗ đầu), Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa) khoa Quý Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng 4 (1743) đời vua Lê Hiến Tông. Khoa thi Hội năm đó có hơn 2000 sĩ tử tham gia, chỉ chọn được 7 người vào thi Điện và không lấy Trạng nguyên, Bảng nhãn.
Sau khi thi đỗ, ông được triều đình ban giữ nhiều chức vụ, làm việc ở viện Hàn lâm, làm giám khảo thi Hương ở trấn Kinh Bắc. Khi trấn Sơn Tây náo động do cuộc nổi dậy của Quận Hẻo Nguyễn Danh Phương, triều đình đã cử ông làm Hiệp đồng trấn Sơn Tây. Ông đã giữ vững chính sách chiêu an, dần thuyết phục được một số người cầm đầu, đồng thời ông xin triều đình giảm tô thuế cho dân chúng. Nhờ đó, Trấn Sơn Tây dần được yên ổn.
Năm 1759, ông được chúa Trịnh Sâm cử làm Đốc đồng vùng Tuyên Quang. Tại miền biên giới này, Ông đã nhiều lần họp cùng các quan chức nhà Thanh ở phủ Khai Hóa, tỉnh Vân Nam thương thuyết để dựng lại cột mốc, lập đồn trú kiểm soát ở các cửa khẩu và cùng nhau liên quân tiễu trừ bọn phỉ để đảm bảo sự bình yên nơi biên giới.
Ông mất năm 1761. Chúa Trịnh Doanh đã tự tay đề bức trướng phúng viếng ông:
“Lưỡng đồ văn hữu vũ
Vạn lý hiểm vi di”
Chúa ca ngợi tài năng của ông là người giỏi cả văn, cả võ, sự nghiệp của ông trên đường muôn dặm chuyển sự gian nan hiểm nguy thành sự bình an. Năm 1783, Vua Lê Hiển Tông phong sắc tôn ông làm Thành hoàng, gia phong là Anh Nghị đại vương và cho xây dựng đền thờ tại quê.
Tên của ông được khắc trên bia Tiến sĩ khoa thi năm Quý Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng 4 (1743) ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
LH
"KỶ SỞ BẤT DỤC, VẬT THI Ư NHÂN"
Khổng Tử (551 – 479 trước công nguyên) tên là Khâu, tự là Trọng Ni, người ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Khổng Tử là nhà tư tưởng, nhà triết học và là nhà giáo dục tiêu biểu.
“Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” là câu nói nổi tiếng của Khổng Tử có nghĩa là điều gì mà mình không muốn thì cũng đừng đem áp dụng cho người khác.
Theo Thạc sĩ Đinh Thị Nguyệt (Học viện Hành chính quốc gia) trong bài “Các chuẩn mực đạo đức cơ bản của Nho giáo với việc rèn luyện đạo đức cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay” đăng ngày 16/10/2019: “Nhân là chuẩn mực đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất trong đạo đức Nho giáo. Tất cả các chuẩn mực đạo đức khác đều xoay quanh chuẩn mực trung tâm này. Từ đức Nhân mà sinh ra các đức khác, các đức khác lại quy tụ về với đức Nhân, là biểu hiện của đức Nhân. Theo Khổng Tử, Nhân là đạo lý làm người, quy định bản tính của con người và mối quan hệ giữa người với người trong đời sống xã hội. Theo đó, Nhân được nhìn nhận từ hai mặt: đối với mình và đối với người .Đối với mình phải trong sạch, không nghĩ và không làm điều xấu, điều ác, phải giữ đúng Lễ, phải “tu thân” theo các chuẩn mực: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, từ đó “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Đối với người, phải thương yêu, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội; mình muốn lập thân thì cũng giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt, điều gì mà mình không muốn thì cũng đừng đem áp dụng cho người khác. Có thể nói, Nhân là chuẩn mực đạo đức chi phối mọi hoạt động, tính cách của con người. Do đó, con người cần rèn luyện để có được đức Nhân trong mối quan hệ với chính mình và với người khác”.
Tham khảo: Tứ thư, NXB Chính trị quốc gia sự thật.
An Nhiên
VỊ TIẾN SĨ LẬP QUỸ “HỌC ĐIỀN” GIÚP HỌC TRÒ NGHÈO HỌC GIỎI
Nguyễn Huy Oánh (1713 – 1789) tự Kính Hoa, hiệu Lựu Trai và Thạc Đình, người làng Trường Lưu, huyện La Sơn nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Năm 1748, khoa thi Mậu Thìn ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa). Sau khi thi đỗ, ông được bổ làm Hàn lâm viện Đãi chế, năm sau làm Tham mưu đạo Thanh Hoa.
Năm 1750, ông làm Hiệp đồng Nghệ An, sau đó được bổ làm Đông các Hiệu thư rồi Thượng bảo Tự khanh, Đề điệu các trường thi Hương hai xứ Hải Dương, Yên Quảng, Khám quan ở các huyện Yên Phong, Yên Việt. Năm 1756, ông làm Tán trị Thừa chính sứ xứ Sơn Nam, sau đó được thăng Đông các Đại học sĩ. Năm 1759, ông được triệu về kinh ban thêm chức Tri biên phiên (phụ trách việc cơ mật), làm Nội giảng kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Về sau, ông được thăng Thượng thư Bộ Công, Tế tửu Quốc Tử Giám.
Tên tuổi Nguyễn Huy Oánh được vinh danh trên bia Tiến sĩ khoa thi Mậu Thìn (1748) đặt tại di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám
Năm 1761, Nguyễn Huy Oánh được ban phẩm phục hàng tam phẩm tiếp đón sứ nhà Thanh. Vì có tài ứng đối, năm 1765, ông được triều đình nhà Lê cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Ngày ông đi sứ triều đình có ban thơ tiễn. Các quan trong triều nhiều người làm thơ tặng. Lê Quý Đôn đã viết những lời trân trọng: “Quan huynh tài học dồi dào. Thuở đi thi bảng vàng chiếm đầu danh sách. Làm quan lại được chọn dẫn đầu đoàn đi sứ. Cánh phượng bay cao quả đã thỏa chí bình sinh.” Sang Trung Hoa, đoàn sứ bộ của Nguyễn Huy Oánh đã được vua quan nhà Thanh đón tiếp rất long trọng và sau hành trình vất vả suốt một năm trở về ông được phong tước Bá.
Khi sống tại quê nhà, Nguyễn Huy Oánh tiếp tục tập trung vào việc dạy học, trước tác. Ở nơi đây ông cũng đã gặt hái được nhiều thành tựu. Về dạy học, học trò của ông có khoảng 30 người thi đỗ Tiến sĩ. Ông là người đích thân khởi xướng lập quỹ “Học điền”, giúp cho học trò nghèo học giỏi có điều kiện học hành thi cử. Ông còn lập một Thư viện lớn chứa đến mấy vạn quyển sách để phục vụ cho việc dạy và học gọi là Phúc Giang thư viện. Ghi nhận công lao này, năm 1824 vua Minh Mạng nhà Nguyễn đã có sắc phong Thần cho Nguyễn Huy Oánh làm “Phúc Giang Thư viện uyên bác chi thần” (vị thần uyên bác của viện sách Phúc Giang). Theo đánh giá của Viện Sử học “đây là một ân sủng đặc biệt của triều Nguyễn giành cho Nguyễn Huy Oánh và là một trường hợp hi hữu trong lịch sử ban sắc phong Thần ở nước ta thời xưa”./.
An Nhiên
VỊ ĐẠO SĨ ĐỖ TRẠNG NGUYÊN - LÊ ÍCH MỘC
Lê Ích Mộc (1458-1538) người làng Thanh Lãng, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, thừa tuyên Hải Dương, nay là xã Quảng Thanh, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ông đỗ Trạng nguyên năm Nhâm Tuất, đời Lê Hiến Tông, niên hiệu Cảnh Thống thứ 5 (1502), tên tuổi được lưu danh trên bia Tiến sĩ hiện lưu giữ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội. Ông được coi là Trạng nguyên của “Tam giáo”: tinh thông Nho, Lão, am tường kinh Phật.
Từ nhỏ, Lê Ích Mộc là một cậu bé thông minh, ham học và ngoan ngoãn, được bà con làng xóm yêu quý. Hàng ngày, sau những buổi phụ giúp cha mẹ, cậu thường tới chùa Ráng (chùa Thanh Lãng – Diên Phúc tự) nghe các nhà sư giảng kinh và mượn sách về tự học. Cảm động trước tấm lòng say mê, hiếu học của Ích Mộc, các nhà sư đã nhận ông làm đệ tử để kèm cặp thêm kinh sử.
Tương truyền, Lê Ích Mộc thường lấy cát đổ lên mâm xoa phẳng, dùng ngón tay viết chữ lên để đọc, ghi nhớ rồi xoá đi. Đó là cách học “nhập tâm”, giúp người ta nhớ lâu, hiểu kỹ. Với học vấn uyên bác, các vị cao tăng chùa Ráng đã dốc lòng dạy dỗ Lê Ích Mộc, trong khoảng 5 năm ông đã thông hiểu cả Tứ thư, Ngũ kinh lẫn giáo lý nhà Phật.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi “Tháng 2, thi Hội các cử nhân trong nước. Số dự thi là 5.000 người, lấy đỗ bọn trần Dực 61 người. Lại bộ kê tên tâu lên. Vua đích thân ra đầu bài văn sách hỏi về đế vương trị thiên hạ... Vua xem xong, cho bọn Lê Ích Mộc (người Thanh Lăng, huyện Thuỷ Đường 2, trước làm đạo sĩ, đến khi đỗ, vua sai tuyên đọc chế từ, bưng lư hương cháy rực lửa ra trước, bị bỏng tuột cả tay mà không biết), Lê Sạn, Nguyễn Văn Thái 3 người đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ; bọn Nguyễn Cảnh Diễn, Lê Nhân Tế 24 người đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân; bọn Phạm Khiêm Bính, Nguyễn Mậu 34 người đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân…”
Thi Hội năm đó “Vua ra đầu bài văn sách hỏi về vương trị thiên hạ”, nhưng khi vào thi Đình vua lại hỏi về Phật pháp. Với xuất thân của Lê Ích Mộc từ nhỏ đã học ở chùa, thông hiểu Phật pháp, chính sử cũng chép ông vốn là đạo sĩ – điều đó cũng cho thấy chắc hẳn ông phải đọc kinh điển Phật giáo, Đạo giáo nhiều hơn so với các Nho sĩ cùng thời đi thi. Bởi vậy ông làm bài rất xuất sắc, ý tứ dồi dào, đề bài ra chín hàng chữ thì ông viết thành 25 trang.
Theo Bản dịch của nhà nghiên cứu Mai Xuân Hải trong bài “Vài nét về bài văn thi Đình trả lời về Phật pháp của trạng nguyên Lê Ích Mộc (1458-1538)” in trong Thông báo Hán Nôm học 1998 (tr.135-145) có đoạn như sau: “Nay được bệ hạ tinh tường hỏi về Phật pháp, lời hỏi đó mới sâu sắc làm sao, thần tuy ngu dốt, đâu dám không hết lòng trả lời.
… Xét ra những việc trên đây đều là thuộc về Phật giáo quảng đại, là bất khả thuyết vậy. Nếu hội tụ được vạn pháp mà quy về một mình thì có lẽ chỉ có bậc thánh nhân mới là bậc ấy chăng?
Kính nghĩ bậc thánh thiên tử Thánh triều ta, kế thừa các bậc vua thánh, gặp gỡ vận hội lớn lao, để tâm nội điển, xoay chuyển pháp luân, trên có thánh từ Thái hoàng thái hậu và thánh Thái hậu, cõi Nam nuôi dưỡng công đức, Thiên Trúc ngưng hội tinh thần, vui sướng nơi quê Trường lạc, siêng năng chăm đạo chí chân. Lại thêm có ngài Bình Cao Vương và các bậc đại thần trông coi việc nước, thảy đều tha thiết với việc thờ Phật, gió vua nhân thổi mãi, mặt trời Phật sáng lâu, tăng thêm vẻ sáng của tổ thành, giúp thêm thánh hóa của Hoàng triều. Cả những hạng đệ tử chúng tôi, sinh gặp đời thịnh trị, được học tập pháp môn, phát Bồ đề vô thượng đạo tâm, thụ Như Lai vi mật giáo pháp, phàm là Phật pháp, thảy đều thi hành. Song nay đấng thánh minh đã sách vấn, vì vẫn cầu đạo đấy, cho nên mới hỏi lũ hạ thần là hạng ngu muội. Xét sự tu đạo ở trong nước, những kẻ học được đạo nào được mấy người? Thần tự xét biết mình là kẻ ngu đần, bàn luận nông cạn, kiến thức thô lậu, đâu đủ để làm nổi việc này. Nhưng thần đâu dám không tâu bày những ý kiến hẹp hòi của mình. Thần cho rằng: Chân đạo vô thể, nó tịch mĩnh, đạm bạc, bình thường, nhưng không thể một giây phút nào rời xa được. Nó mãi mãi ở ngay thân mình chăng? Nó mượn hai khí mà phôi thai, mượn ngũ hành mà nảy nở, là một thể với trời đất, phối hợp với ánh sáng của mặt trời mặt trăng, và tinh thần tiết khí đều thuộc vào đó, đều sinh ra từ đó, ở trong thì là chủ của Tam tài, ở ngoài thì là thứ linh thiêng của muôn vật. Và sự tài chế vận dụng của nó không ngoài một cái tâm mà thôi. Thế thì biết rằng: tâm kia là tính vậy. Tính tức là lý, cũng là khí vậy. Một khí linh quang, suốt cả cổ kim, tự nhiên vẫn chiếu dọi. Nói về sự cao thì trời cũng không thể hơn được. Nói về sự lớn, thì đất cũng không thể sánh được. Nói về sự rộng, thì hư không cũng không thể bằng được. Nói về sự nhỏ, thì sợi lông tơ cũng không thể đếm được. Nó tập hợp cả vạn tượng bời bời, thấu suốt cả vũ trụ trên dưới. Đó là vị chân Phật vậy…”.
Sách Công dư tiệp ký có chép rằng khi duyệt bài của ông, vua Hiến Tông phải sửng sốt thốt lên rằng: “Bài văn của Lê Ích Mộc hơn hẳn mấy tầm so với bạn đồng khoa, trẫm rất hài lòng duyệt cho người ấy xứng bậc khôi nguyên”.
Cho đến nay, bài văn thi Đình trả lời về Phật pháp của Trạng nguyên Lê Ích Mộc vẫn được coi là một tư liệu quý giá, quan trọng để nghiên cứu lịch sử tư tưởng và lịch sử Phật giáo Việt Nam. Bài văn Đình của ông cũng được coi là một hiện tượng độc đáo bàn về Phật pháp trong lịch sử khoa cử Nho học hơn nghìn năm ở Việt Nam. Điều đó chứng tỏ Phật giáo Việt Nam có một sức sống mạnh mẽ, là một dòng chảy liên tục, ngay ở cả thời kỳ Nho giáo được coi là thịnh trị nhất. Năm đó ông đỗ Trạng nguyên và có thể được coi là vị “Trạng nguyên tinh thông Nho, Lão, am tường kinh Phật”.
Sau khi đỗ Trạng ông được bổ nhiệm chức vị, chính sự rối ren, ông xin từ quan, về quê tu sửa mở mang chùa Ráng, lấy tên chữ là Diên Phúc Tự, dạy học tại chùa nổi tiếng khắp vùng, góp phần đào tạo nhân tài cho quê hương đất nước.
Năm 1538, Lê Ích Mộc qua đời, dân làng đã lập đền thờ tưởng niệm. Hiện nay khu lưu niệm Trạng nguyên Lê Ích Mộc (xã Quảng Thanh, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng) được xếp hạng cấp quốc gia năm 1993.
AV
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM LÊ TUNG – DANH NHÂN VĂN HOÁ TRIỀU LÊ SƠ
Lê Tung (1452 – 1514) tên thật là Dương Bang Bản, quê ở thôn Chảy, xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Năm 33 tuổi, ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp) khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức 15 (1484) đời Lê Thánh Tông. Sau ông được vua yêu quý, đổi cả họ và tên thành Lê Tung.
Năm 1493, Lê Tung được cử đi sứ nhà Minh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vua giao. Năm Hồng Thuận thứ hai (1510), Ông được thăng bổ giữ chức Thượng thư Bộ Lại. Năm Hồng Thuận thứ 4 (1512) ông được gia phong hàm Thiếu bảo, bổ giữ chức Thượng thư Bộ Lễ, Đông các Đại học sĩ kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám, tước Đôn Thư bá. Như vậy cùng một lúc ông giữ ba chức vụ quan trọng: Thượng thư Bộ Lễ, Tế tửu Quốc Tử Giám và chức Đông các Đại học sĩ. Đây là một sự đánh giá rất cao tài năng, đức độ của triều đình đối với Lê Tung do ông đã có những đóng góp xứng đáng cho nước nhà.
Lê Tung là nhà sử học, tác giả của sách Việt giám thông khảo tổng luận- một tác phẩm sử học quan trọng trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư khắc in năm Chính Hoà 18 (1697).
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “năm Giáp Tuất niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1514). Tháng 9, vua Lê Tương Dực sai Lê Tung soạn Đại Việt thông giám tổng luận, 1 quyển”. Sử gia Phan Huy Chú cho biết, khi Tư nghiệp Quốc Tử Giám Vũ Quỳnh làm xong sách Đại Việt thông giám thông khảo, dâng lên vua. Vua Lê Tương Dực muốn tóm tắt những điều quan trọng trong bộ sử ấy đã sai Lê Tung soạn làm thành bài Tổng luận để đọc cho tiện.
Không chỉ đóng góp về mặt chính trị và sử học, Lê Tung còn là một nhà giáo dục, nhà văn hóa có cống hiến nhất định vào thời đại ông. Ông từng giữ chức Thượng thư Bộ Lễ kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu và có đóng góp cho việc đào tạo và lựa chọn nhân tài cho đất nước. Tư tưởng về đào tạo, lựa chọn hiền tài của ông được thể hiện rất rõ qua bài ký bia Tiến sĩ khoa thi năm Hồng Thuận thứ 3 (1511), do ông soạn, được dựng vào tháng 3 năm 1513.
Trong bài ký, ông khuyên răn, nhắc nhở kẻ sĩ, người đỗ đạt được khắc tên trên bia đá phải luôn rèn luyện, thể hiện cho xứng đáng với ân điển của triều đình, với danh tiếng người hiền tài: “Kẻ sĩ ở đời được ghi tên vào tấm đá này thực may mắn biết bao! Nếu quả thật biết giồi mài trung nghĩa, cố gắng liêm cần để có tiếng là vị Trạng nguyên trung hiếu, là bậc quân tử ngọc vàng, thì mai sau các học trò nhà Thái Học sẽ chỉ vào tên mà nói: Vị này vào hàng Hổ bảng, vị này là bậc kỳ anh, người hiền lương biết vậy mà lấy làm khích lệ”. Đồng thời, ông chỉ rõ hậu quả của những kẻ tha hoá, thực dụng: “Thảng như có kẻ ngoài ngọc trong đá, bề ngoài như chim phượng mà tiếng kêu như cú diều, dua nịnh giống phường dựa cột, hèn nhát như lũ bó tay, thiên hạ đời sau sẽ chê cười nói: kẻ ấy tà học như hạng Công Tôn Hoằng, kẻ kia phản lại kinh sách cũng như Vương An Thạch...”. Văn bia tiến sĩ do ông soạn thể hiện rõ mong muốn đào tạo và lựa chọn những người thực tài, đem trí tuệ và tâm sức cống hiến cho đất nước, trở thành những lương đống của nước nhà.
Lê Tung làm quan trải 5 triều vua: Lê Thánh Tông (1460 - 1497), Lê Hiến Tông (1497 - 1504), Lê Túc Tông (1504), Lê Uy Mục (1505 - 1509), Lê Tương Dực (1509 - 1516). Mặc dù trong giai đoạn nhiều biến động của đất nước, nhưng ông vẫn giữ được tinh thần của nhà Nho, bậc trí thức và đóng góp cho đất nước, xứng đáng là nhà chính trị, nhà giáo tiêu biểu thời Lê Sơ.
LH
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần kíp.*
*Trích Bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo 3 (1442)
An Nhiên
BÀ MẠNH MẪU BA LẦN DỜI NHÀ ĐỂ DẠY CON THÀNH NGƯỜI TỐT
Mạnh Tử (372 – 289 TCN), tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Cha mất sớm khi ông mới bốn, năm tuổi, chịu sự nuôi dưỡng giáo dục của mẹ là Chương Thị, sau này được gọi là Mạnh Mẫu.
Bà vì muốn cho con thành một người Thánh hiền, nên khi con còn trẻ thơ bà đã hết lòng hết sức vào việc dạy con. Bà đã phải ba lần dời chỗ ở để dạy con. Ban đầu nhà ở xóm chuyên nghề làm thịt gia súc. Mạnh Tử thường cùng các bạn chơi trò buôn bán, bà Mạnh Mẫu thấy chỗ này không tốt cho con, ở lâu thì con sẽ hư.
Bà tạm dời nhà qua xóm làm đồ mã. Ở đây, Mạnh Tử cũng chỉ chơi các trò chơi cúng tế cùng đám bạn. Thấy rằng nơi đây cũng phải là môi trường để con học tập, bà lại quyết định chuyển nhà lần nữa. Nơi ở này gần nhiều trường học. Lúc đó thầy Mạnh đã 6, 7 tuổi, thấy học trò đi học, cũng xin mẹ theo đi học. Bà mới mừng mà nói rằng: “Chỗ này là chỗ con ta ở được rồi!”.
Từ lúc đó, chỗ ở mới ổn định, nhưng lúc bấy giờ còn nhỏ, Mạnh Tử chưa chuyên cần học tập. Một ngày kia, trường học chưa đến giờ nghỉ mà Mạnh Tử đã ra về; vừa vào nhà chào mẹ, bà Mạnh Mẫu đương ngồi bên khung cửi dệt vải, sắc mặt hiện ra vẻ nghiêm nghị, liền cầm dao cắt khổ vải trong khung cửi đứt làm hai đoạn. Mạnh Tử sợ hãi hỏi bà: “Vì sao mẹ lại cắt song cửi?” Bà nói: “Nghề con đi học cốt để làm nên một người. Bây giờ con bỏ học mà về, cũng như bộ song cửi của mẹ đây đã bị một lát dao cắt đứt, tức là đổ bỏ đi!”. Mạnh Tử nghe đến đó, cúi đầu tạ tội với mẹ. Từ đó trở đi, ông hết sức chăm chỉ học tập, kết quả thành một vị Á thánh đại hiền, tức là ông tổ thứ hai của nho giáo và chỉ đứng sau Khổng Tử.
Nguồn: Phan Bội Châu, Khổng học đăng - Mạnh Tử lược truyện, Nhà xuất bản
Văn hóa Thông tin 1998
LH
DANH NGÔN KHỔNG TỬ
Khổng Tử (479-551 TCN) tên là Khâu, tự là Trọng Ni, người huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông là nhà tư tưởng, nhà triết học và nhà giáo dục nổi tiếng thời cổ đại, người đã san định Ngũ Kinh (Kinh Thi, Thư, Lễ, Dịch và Kinh Xuân Thu). Ông đã từng đi chu du trong gần 30 năm để truyền bá tư tưởng của mình và dạy học. Những trước tác của ông đã trở thành kinh điển của Nho giáo, được truyền bá và lưu truyền cho đến ngày nay. Nội dung chủ yếu về tư tưởng của ông là về chữ “Nhân”, được thể hiện qua những lời nói, câu trả lời của ông, được học trò ghi lại chủ yếu trong Luận Ngữ thuộc Tứ Thư.
Quan điểm của Khổng Tử về đức “Nhân” là lòng yêu thương con người.
Theo Luận ngữ, Khổng Tử từng nói: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”, nghĩa là: điều gì mình không muốn với mình thì cũng đừng làm cho người khác.
Đây là nguyên tắc trong quan hệ ứng xử giữa con người với con người. Những gì mình không muốn lại đi làm cho người khác thì là điều không đúng. Bản thân mình muốn người khác đối xử với mình như thế nào, thì trước hết mình phải đối xử với họ đúng như thế. Ai cũng muốn điều tốt đẹp với bản thân mình, vậy hãy làm điều đó với mọi người, mọi người sẽ làm điều tốt đẹp đó với mình. Có như vậy mọi người mới ứng xử tốt đẹp, dành cho nhau những điều mà ai cũng muốn.
LH
TÁC GIẢ CỦA BA BÀI VĂN BIA TẠI VĂN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM
Nguyễn Đăng Minh (1623 – 1696), tự Phác Phu, thụy Hành Sơn, người xã Hoài Bão, huyện Tiên Du, xứ Kinh Bắc (nay là làng Hoài Thượng, xã Liên Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh). Ông là em của Tiến sĩ Nguyễn Đăng Cảo, cha của Tiến sĩ Nguyễn Đăng Tuân và Nguyễn Đăng Đạo.
Từ nhỏ, Nguyễn Đăng Minh đã bộc lộ tư chất thông minh, hiếu học. Năm 16 tuổi, ông đỗ Hương cống. Năm Bính Tuất (1646), cùng với anh trai là Nguyễn Đăng Cảo tới kinh thành Thăng Long tham dự kỳ thi Hội. Tại kỳ thi này, triều đình lựa chọn 17 người vào hạng xuất sắc thì cả hai anh em ông đều trúng cách. Hôm sau, vào thi Điện, hoàng thượng ngự lãm, định thứ tự cao thấp, ban cho Nguyễn Đăng Cảo đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa), Nguyễn Viết Cử đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) và 15
người đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, trong đó có Nguyễn Đăng Minh. Sau khoa thi, ông và anh trai Nguyễn Đăng Cảo cùng vinh quy bái tổ.
Sau khi thi đỗ, trong suốt khoảng gần 10 năm (1646 - 1653), Nguyễn Đăng Minh giữ chức Hàn lâm viện Hiệu thảo, thực hiện công việc tu soạn các bộ sử. Tháng 3 năm Ất Tỵ (1665), triều đình ban thưởng cho các chức trong ngoài được thăng cấp, Nguyễn Đăng Minh lúc này được cử làm Hiến sát sứ xứ Hưng Hoá. Nguyễn Đăng Minh cũng là một trong những người tài đức vẹn toàn được triều đình Lê Trung hưng tin tưởng cử giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám.
Trong số 82 bia đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, có ba tấm bia: văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Đinh Mùi niên hiệu Hoằng Định thứ 8 (1607), văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Canh Tuất niên hiệu Hoằng Định thứ 12 (1610), văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Sửu niên hiệu Hoằng Định thứ 14 (1613), ba bài ký trên các tấm bia này đều do Tiến sĩ Nguyễn Đăng Minh soạn. Trong các bài ký, Nguyễn Đăng Minh đã nêu bật được vai trò của hiền tài có quan hệ trọng đại với vận mệnh của quốc gia: “Nền trí trị ắt sinh ra những người toàn tài, mà những bậc toàn tài đủ để làm cho nền trí trị được lâu dài bền vững. Nhưng nhân tài tất phải do khoa mục mà ra”. Hay “Mở khoa thi chọn kẻ sĩ là để cho vẻ vang ở đương thời; ghi tên lên bia dựng ở Quốc Tử Giám là muốn cho lưu danh với hậu thế”.
Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Đăng Minh là người có nếp sống giản dị, liêm khiết, tránh mọi sự phiền nhiễu tới dân chúng. Ông cũng là một tấm gương ham học, đức độ, nhân từ, yêu nước, thương dân cho thế hệ hôm nay học tập và noi theo./.
An Nhiên
https://youtu.be/GJCUvleRIGc
DANH NGÔN VỀ HỌC TẬP CỦA KHỔNG TỬ
Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 trước Công nguyên tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Khổng Tử là nhà tư tưởng, nhà triết học và là nhà giáo dục tiêu biểu.
Ông là người thông minh, ôn hòa, ham học, chưa đến 30 tuổi đã nổi danh học vấn, học trò xa gần theo học rất đông.
Khi làm thầy, ông cố hết sức để dạy bảo học trò. Một trong những điều quan trọng trọng việc học tập được ông nói đến là: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?”
Học là quá trình ôn luyện. Đối với những tri thức đã học được, phải nghiêm chỉnh làm theo, phải thường xuyên ôn tập để không ngừng phát hiện ra điều mới mẻ, củng cố nâng cao sự nhận thức và hiểu biết của mình. Mỗi lần ôn tập là một lần có thêm hiểu biết mới, trình độ mới.
Ban đầu học là để hiểu biết sự vật, còn ôn tập hay thực tập là để củng cố điều đã học và đem áp dụng vào cuộc sống, củng cố tri thức giúp mình trở thành người có tài có đức trong xã hội. Vì vậy học chính là đã đem lại niềm vui.
Điện Đại Thành, nơi đặt tượng thờ Khổng Tử
Tài liệu tham khảo: Tứ Thư, NXB Quân đội nhân dân
LH
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM NGUYỄN NHƯ ĐỔ
Nguyễn Như Đổ (1424 -1525), tự là Mạnh An, hiệu Khiêm Trai là người xã Đại Lan, huyện Thanh Đàm, trấn Sơn Nam (nay là thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Nguyễn Như Đổ đỗ Hội nguyên, Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Nhị danh (Bảng nhãn) khoa thi năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442) đời Lê Thái Tông khi mới 19 tuổi.
Sau khi thi đỗ, Nguyễn Như Đổ được bổ nhiệm làm quan trong Viện Hàn lâm, lo việc chế, cáo. Năm 1443 – một năm sau khi đỗ Bảng nhãn, ông được cử làm Phó sứ vâng mệnh sang nhà Minh. Hoàn thành chức trách, trở về, ông được đổi làm An phủ sứ lộ Quy Hoá. Đến năm 1449, ông được thăng Hàn Lâm viện Trực học sĩ. Sau đó, hai lần ông được cử đi sứ sang nhà Minh (Mùa đông năm 1450 và mùa Thu năm 1459). Cả ba lần đi sứ, ông đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được vua Lê hết sức khen ngợi.
Nguyễn Như Đổ làm quan trải 8 triều vua đầu thời Lê, là vị quan chính trực, liêm cẩn. Nhà sử học Phan Huy Chú viết về ông trong sách Lịch triều hiến chương loại chí như sau: “Vua Lê Thánh Tông lên ngôi, nhà vua rất yêu người Nho học. Nguyễn Như Đổ được vua yêu dùng, cất lên chức Thượng thư bộ Lại, bấy giờ mới 37 tuổi, lại thêm chức Tả ty sảnh Môn hạ, Tả gián nghị đại phu, coi sổ sách quân dân ở Bắc đạo, kiêm Thừa chỉ học sĩ viện Hàn lâm, tiến lên kiêm Thượng thư bộ Lễ, Đại học sĩ viện Càn Đức, tân khách của thái tử. Lại giữ chức Đề điệu trong hai kỳ thi Điện năm Bính Tuất (1466) và Kỷ Sửu (1469) rồi mới giữ việc cất nhắc các quan”.
Năm 1462, sứ thần nhà Minh là Hàn lâm học sĩ Tiền Phổ nổi tiếng là người thích tranh luận và hay bắt bẻ đi sứ sang nước ta. Là người học rộng tài cao, Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ đã được vua Lê Thánh Tông giao trọng trách tiếp sứ thần nhà Minh. Trong 12 ngày được Nguyễn Như Đổ đón tiếp, vị sứ thần nhà Minh đã rất khâm phục tài cao học rộng của ông.
Không chỉ là nhà chính trị, ngoại giao xuất sắc, Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ còn là một nhà giáo dục có nhiều đóng góp trong việc giáo dục, đào tạo hiền tài cho đất nước. Với học vấn uyên thâm, ông được giao các nhiệm vụ quan trọng trong nhiều kỳ thi chọn Tiến sĩ như làm quan Độc quyển khoa thi năm Quý Mùi (1463), chức Đề điệu (Chánh chủ khảo) hai kỳ thi Điện năm Bính Tuất (1466) và Kỷ Sửu (1469). Ông làm tròn trách nhiệm của mình với vai trò là người đánh giá tài đức của thí sinh, là người tư vấn cho nhà vua trong việc lựa chọn nhân tài cho đất nước. Sau đó, năm 1486, ông được vua Lê Thánh Tông tín nhiệm cử kiêm giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám, chức quan đứng đầu, đảm trách nhiệm vụ quản lý, điều hành trường quốc học lớn nhất đất nước. Ông giữ chức vụ đứng đầu trường Quốc Tử Giám trong hơn 10 năm rồi về trí sĩ.
Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Như Đổ mất khi ông ngoài trăm tuổi, ông được đời sau ca ngợi là một nhân tài hiếm có trong lịch sử nước ta. Tên của ông được khắc trên bia đá đề danh Tiến sĩ khoa thi năm 1442, khoa thi đầu tiên được dựng bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Để ghi nhớ công lao, cũng như đề cao hiền tài của Thăng Long – Hà Nội, năm 1994, tên ông được đặt cho một tuyến phố ở Hà Nội ngay cạnh di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
LH
HOÀNG GIÁP BÙI SĨ TIÊM - TÁC GIẢ 5 BÀI VĂN KHẮC TRÊN BIA TIẾN SĨ TẠI VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM
Bùi Sĩ Tiêm (1690-?) là người làng Kinh Lũ, huyện Đông Quan, nay thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Ông đỗ thi Hương khi mới 18 tuổi và được học tại trường Quốc Tử Giám. Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, trong các buổi bình văn hàng tháng do Quốc Tử Giám tổ chức, ông luôn được xếp hạng ưu. Năm 26 tuổi, ông đỗ Đình nguyên, Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa thi năm Ất Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh 11 (1715). Ông làm quan đến chức Thái thường Tự khanh.
Bùi Sĩ Tiêm là vị quan khảng khái cương trực. Ông mở trường dạy học. Học trò theo học rất đông, và rất kính trọng tiết tháo, thanh cao của thầy. Hoàng giáp Bùi Sĩ Tiêm giỏi văn chương, một lòng trung nghĩa, được người đời kính mến. Lúc ấy người ta truyền tụng:“Đông quan Kinh Lũ, văn chương độc bộ”, ý nói văn chương của ông nghè Kinh Lũ hơn cả mọi người.
Với khí tiết thanh tao, tài văn chương hơn người, năm 1717 ông đã được triều đình giao soạn năm bài ký khắc trên năm bia Tiến sĩ đặt tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Đó là khoa thi năm Bính Thân niên hiệu Thịnh Đức 4 (1656), khoa thi năm Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị 8 (1670), khoa thi năm Ất Sửu niên hiệu Chính Hoà 6 (1685), khoa thi năm Canh Thìn niên hiệu Chính Hoà 21 (1700), và khoa thi năm Ất Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh 11 (1715) – năm ông thi đỗ.
Qua năm bài văn bia, bằng những lời văn khúc triết, ông đã cho thấy rõ quan điểm giáo dục, đào tạo hiền tài của dân tộc. Trong văn bia khoa thi năm Canh Thìn niên hiệu Chính Hoà 21 (1700), ông viết: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, được hiền tài thì nước nhà thịnh sáng”. Bài văn bia khoa thi năm Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị 8 (1670), chỉ ra vai trò, tầm quan trọng của các hiền nhân đối với sự hưng thịnh quốc gia ở mọi thời đại: “Dựng ngôi nhà tất phải kén đủ các thứ gỗ quý: trị lý việc nước, ắt phải nhờ sức các bậc hiền tài. Gỗ lạt đủ thì việc cất dựng dễ thành, đông người hiền tài thì sự nghiệp thái bình ắt đến. Cho nên các bậc Thánh vương đời xưa không đời nào không cấp bức việc cầu tìm hiền tài, thu dùng kẻ sĩ để ngợi ca tô điểm cho đời thái bình”.
Hơn thế, từng câu, từng chữ trong các bài văn bia là những lời răn dạy nhiệt huyết của ông gửi tới mọi kẻ sĩ – những người đã thi đỗ được ban ân sủng rất hậu của triều đình, những học trò, những thế hệ muôn đời sau luôn phải rèn giũa, trau dồi phẩm chất cống hiến tài năng cho đất nước: “Nay lại truy nhớ công lao, cho khắc tên vào đá tốt để truyền tới lâu dài, khiến cho kẻ sĩ biết văn học là quý trọng, khoa giáp là vẻ vang, thật trọng hậu biết bao! Người đời sau bước tới cửa hiền, thấm nhuần giáo hóa Thánh triều, mắt nhìn bia, miệng đọc văn, cho nên thấy kẻ hiền phải lo cho bằng, thấy kẻ ác phải biết tự răn đe, giồi mài tiết hạnh, rèn giũa đạo đức để giúp làm đẹp mưu lớn, làm rạng rỡ pháp độ của vua, giúp nền thái bình thịnh trị, bồi đắp nền tảng nước nhà lâu dài tới ức vạn năm. Vậy thì việc khắc tên vào đá có quan hệ đến trị bình giáo hóa, há phải nhỏ đâu!”. (Bài ký khoa Bính Thân niên hiệu Thịnh Đức 4 (1656)).
Mục tiêu dựng bia đá đặt tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám cũng được ông nêu rõ trong các bài văn bia: “Thế thì tấm đá này dựng lên không chỉ để làm rạng danh Nho khoa, phô trương việc lớn, mà còn là để duy trì gìn giữ thế giáo, vun đắp gốc trị mà bảo vệ vững chắc gốc tảng của nền thái bình đến muôn vạn năm”. (Bài ký khoa Ất Sửu niên hiệu Chính Hoà 6 (1685)); “Quy chế dựng bia đặt ra đâu phải chỉ để người đương thời trông vào cho đẹp mắt, mà chính là để gửi gắm khuyên răn đối với hậu thế, sự hữu ích của nó đối với phong hóa thế đạo há phải là nhỏ đâu!”.(Bài ký khoa Ất Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh 11 (1715)).
Bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám là di sản văn hóa vô giá của nhân loại; bài văn khắc trên bia là những tư liệu phản ánh nền giáo dục và khoa cử, tuyển chọn hiền tài suốt hơn 300 năm dưới triều Lê-Mạc, những trang sử đá do các nhà trí thức học vấn uyên thâm và cũng là các đại thần được triều đình tuyển chọn trong đó có Bùi Sỹ Tiêm biên soạn. Năm bài ký khắc trên bia Tiến sĩ do ông biên soạn là nguồn tư liệu sử học chân xác về nền giáo dục, đào tạo và thi cử tuyển chọn nhân tài thời Lê mà Hoàng giáp Bùi Sĩ Tiêm đã để lại chúng ta.
LH
LÀNG KHOA BẢNG TẢ THANH OAI
Làng Tả Thanh Oai xưa có tên Nôm là làng Kẻ Tó, nay thuộc xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Cuối thời Lê và đầu thời Nguyễn, làng thuộc tổng Tả Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng. Sau Cách mạng tháng 8, làng nhập với các làng Siêu Quần, Thượng Phúc, Nhân Hòa thành xã Đại Thanh, huyện Liên Nam, tỉnh Hà Đông. Đến đầu năm 1979 được đưa về huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Tả Thanh Oai là vùng đất giàu truyền thống hiếu học và khoa bảng. Trong làng có nhiều gia đình, dòng họ, con cháu quyết tâm học hành và đỗ đạt cao, có đến 12 người đỗ Tiến sĩ dưới thời phong kiến. Những người đỗ đại khoa thuộc 4 dòng họ: Nguyễn, Ngô Vi, Ngô Thì, Nguyễn Thế. Bên cạnh đó, làng cónhiều người đỗ Hương cống, Cử nhân, Sinh đồ và Tú tài.
Nhà khoa bảng khai khoa đầu tiên của làng Tả Thanh Oai là Nguyễn Chỉ. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm 1453đời vua Lê Nhân Tông. Người thứ hai là Nguyễn Khánh Dung đỗ Hoàng giáp khoa thi năm 1478 đời vua Lê Thánh Tông. Ông làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám. Vị tiến sĩ cuối cùng thời quân chủ là Ngô Điền đỗ Hoàng giáp khoa thi năm 1841. Ông làm quan đến chức Tri phủ.
Đặc biệt, trong số 12 vị Tiến sĩ của làng có 2 cha con Ngô Thì Sĩ và Ngô Thì Nhậm. Ngô Thì Sĩ (1725 – 1780) đỗĐình nguyên, Hoàng giáp khoa thi năm 1766 đời vua Lê Hiển Tông. Trước khi thi đỗ, ông đã được bổ dụng chức Công khoa Cấp sự trung, Đốc đồng Thái Nguyên. Sau khi thi đỗ ông đã trải qua các chức quan Hiến sát sứ Thanh Hóa, Tham chính Nghệ An.Theo sử sách ghi lại ông là người có học vấn sâu rộng, là nhà văn, nhà thơ lớn, để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng như: Đại Việt sử ký tiền biên; Việt sử tiêu án; Nghệ An thi tập; Hải Đông chí lược, …
Người con là Ngô Thì Nhậm (1746-1803), là con trưởng của Ngô Thì Sĩ. Ông thi Hương đỗ Giải nguyên, 30 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm 1775 dưới triều vua Lê Hiển Tông. Trước đó ông đỗ khoa Sĩ vọng, được bổ chức Hiến sát phó sứ Hải Dương. Năm 1776, thăng chức Giám sát ngự sử xứ Sơn Nam, thuyên bổ chức Đốc đồng Kinh Bắc kiêm Đốc đồng Thái Nguyên. Năm 1779, ông được thăng Đông các Hiệu thư, Hàn lâm viện Hiệu thảo, làm Tư giảng dạy học cho Trịnh Tông. Sau này ông được thăng chức Hữu thị lang bộ Công. Khi Nguyễn Huệ ra bắc lần thứ hai (1788), ông được tin dùng, bổ nhiệm chức Lại bộ Tả thị lang, sau đó thăng chức Thượng thư bộ Binh, từng làm Chánh sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc).Ngô Thì Nhậm là nhà văn hóa tư tưởng lỗi lạc, để lại nhiều tác phẩm có giá trị như: Hàn các anh hoa; Hi Doãn thi văn tập; Bang giao hảo thoại; Xuân Thu quản kiến, Trúc lâm Tông chỉ nguyên thanh… Ông cũng là Tổng tài Quốc sử quán, tham gia biên soạn và in Đại Việt sử ký tiền biên.
Ngày nay, tiếp nối truyền thống của cha ông, các thế hệ con cháu làng Tả Thanh Oai không ngừng học tập và vươn lên, góp phần làm rạng danh,tô điểm thêm cho truyền thống hiếu học của quê hương.
Thúy Hồng
TIẾN SĨ LÊ PHÚ THỨ
Lê Phú Thứ (1694 – 1782) người xã Diên Hà, huyện Diên Hà (nay thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Sau đổi tên thành Lê Trọng Thứ. Ông là thân phụ của Bảng nhãn Lê Quý Đôn.
Thủa nhỏ Lê Trọng Thứ nổi tiếng là người thông minh, đĩnh ngộ, sau này theo học Thám hoa Vũ Thạnh ở Hào Nam. Năm 27 tuổi, ông đỗ Hương cống. Sau khi thi đỗ ông được vào học tập tại Quốc Tử Giám. Thời gian học tập tại Quốc Tử Giám, ông không chỉ được rèn tập trau dồi kiến thức mà còn được các thầy học rèn rũa đức hạnh, để rồi sau này trở thành một vị quan tài đức. Năm 31 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái 5 (1724). Khoa thi này có gần 3000 người dự thi, nhưng chỉ chọn được 18 người. Hiện tấm bia đề danh khoa thi đặt tại di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Sau khi thi đỗ, ông đã được triều đình giao chức Giám quan, sau thăng đến chức Thượng thư bộ Hình. Ông là vị quan thẳng thắn, trung thực. Theo sách Đại Việt sử ký tục biên chép: “Thượng thư bộ Hình Lê Trọng Thứ lại hưu trí. Thứ thẳng thắn dám nói, đầu năm Canh thân (1740) khởi dụng từ lúc đương nhàn rỗi, bèn lấy việc can ngăn làm trách nhiệm. Những việc quân, việc nước quan trọng phần nhiều đều phơi bày sáng tỏ, bởi thế ngày càng được chúa biết đến. Chúa Trịnh thường viết thư khen là trung thực. Trước vì mãn hạn nghỉ việc, lại được dùng lại 15 năm, đến bấy giờ 80 tuổi lại xin cáo lão. Chúa ưng cho. Đám văn thần đều cho là vinh hạnh”.
Trong đời làm quan ông nhiều lần dâng sớ điều trần việc yên dân, khai hoang, tổ chức binh lính, từng khuyên chúa Trịnh đặt ống đồng để thỉnh cầu dân ý. Năm 1778, quê ông bị nạn đói, ông đã lấy tiền riêng cấp cho dân suốt 2 tháng liền. Tiếp nối con đường của ông, người con Lê Quý Đôn cũng trở thành rường cột của triều đình, một danh nhân có nhiều đóng góp cho đất nước trong lịch sử Việt Nam.
LH
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM NGUYỄN CÔNG THÁI
Nguyễn Công Thái (1684 - 1758) người xã Kim Lũ huyện Thanh Trì - Nay thuộc Kim Lũ (làng Lủ), phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Thuở nhỏ, Nguyễn Công Thái đã nổi tiếng thông minh, ham học. Năm 18 tuổi, ông thi đỗ Giải nguyên khoa thi Hương năm Nhâm Ngọ (1702). Mùa xuân năm 1715, triều đình tổ chức khoa thi Hội, Nguyễn Công Thái đã tham gia kỳ thi và đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Sau khi thi đỗ, Nguyễn Công Thái được triều đình cử làm Giám sát Ngự sử đạo Nghệ An, Giám sát Ngự sử đạo Thanh Hoa, Hiến sát sứ của Hiến sát sứ ty Nghệ An, Đông các Hiệu thư, Đông các Học sĩ.
Tên tuổi Tiến sĩ Nguyễn Công Thái được vinh danh trên bia Tiến sĩ khoa Ất Mùi (1715) được lưu giữ tại di tích Văn Miếu-Quốc Tử Giám
Năm 1730, ông đỗ hạng ba trong kỳ thi Đông các. Đông các là kì thi có từ năm 1659, chỉ dành cho những vị quan có hàm từ Tứ phẩm trở xuống, thi viết thơ, ký, luận… Vì đỗ hạng ba nên Nguyễn Công Thái được phong làm Đông các Hiệu thư kiêm Phó Đô Ngự sử, đồng thời được ban tước Kim Lĩnh bá. Năm 1733, Nguyễn Công Thái được thăng chức làm Công bộ Tả Thị lang. Năm 1744, ông được bổ nhiệm làm Tham tụng, Thượng thư Bộ Hộ kiêm Đông các Hiệu thư, hàm Thiếu bảo. Bốn năm sau (1748), ông chuyển sang làm Thượng thư Bộ Lễ - người đứng đầu của bộ giữ việc lễ nghi, tế tự, khánh tiết, yến tiệc, trường học, thi cử, áo mũ, ấn tín, phù hiệu, chương tấu, biểu văn, sứ thần cống nạp, các quan chầu mừng, tư thiên giám, thuốc thang, tăng lục, đạo lục, giáo phường, đồng văn nhã nhạc.
Đặc biệt, từ năm 1728, Nguyễn Công Thái còn được triều đình giao giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám. Mặc dù thời gian đảm nhiệm chức vụ Tế tửu Quốc Tử Giám không dài, nhưng với kiến thức và trách nhiệm của mình, ông đã góp phần không nhỏ vào việc củng cố và phát triển Văn Miếu - Quốc Tử Giám cũng như nền giáo dục Việt Nam. Từng tham gia khoa cử, nhận thấy sự suy thoái của giáo dục Nho học nước ta thế kỷ XVIII, việc được chúa Trịnh chấp thuận xóa bỏ tiền lệ nộp tiền khoa thi Hương năm 1753, thể hiện vai trò của Nguyễn Công Thái góp phần làm trong sạch khoa cử thời đó./.
An Nhiên
BA CHA CON MỘT NHÀ CÙNG ĐỖ TIẾN SĨ
Huyện An Lão, Hải Phòng có một gia đình có ba cha con đều đỗ Đại khoa vào hai kỳ thi cách nhau 12 năm (1502 và 1514). Người cha làm quan tới chức Tả thị lang, còn hai người con làm quan tới chức Thượng thư và cả hai đều được ban tước Văn Đẩu hầu và Mỹ Thọ hầu. Bởi vậy mà ở An Lão, Hải Phòng vẫn còn truyền tụng đôi câu đối:
"Đồng thế đồng triều tam tiến sĩ
Nhất gia nhất nhật lưỡng vinh quy”
Nghĩa là : “Cùng một đời, cùng một triều đại có 3 người đỗ tiến sĩ. Cùng một nhà, cùng một ngày có hai người được vua cho vinh quy”
Đó chính là gia đình tiến sĩ Nguyễn Kim (1470- ?). Nguyễn Kim người xã Thạch Lựu, huyện An Lão (nay thuộc xã An Thái, huyện An Lão, Thành phố Hải Phòng). Năm 33 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống 5 (1502) đời Lê Hiến Tông. Ông làm quan đến chức Hiến sát sứ, khi mất được tặng hàm Hữu Thị lang.
Không chỉ ông mà cả hai con trai ông cũng đều đỗ Tiến sĩ. Đó là Nguyễn Chuyên Mỹ, Nguyễn Đốc Tín cùng đỗ Tiến sĩ khoa Quý Mùi niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1514) đời Lê Tương Dực.
Tiến sĩ Nguyễn Kim sau khi thi đỗ làm quan đến chức Hiến sát sứ. Các con ông là Nguyễn Đốc Tín (đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân), Nguyễn Chuyên Mỹ (đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân) làm quan dưới thời nhà Mạc đến chức Thượng thư. Trong suốt cuộc đời làm quan, ngay cả sau này khi đã về trí sĩ, ba cha con Tiến sĩ Nguyễn Kim đều có những đóng góp nhất định trên các lĩnh vực như văn hóa, và giáo dục cho đất nước. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trong “Bạch Vân thi tập” đã có có bài thơ ca ngợi truyền thống học hành của cha con, anh em Nguyễn Chuyên Mỹ như sau:
“Đề Văn đẩu hầu gia
Nhất Môn phụ tử đệ nhị huynh
Đạo học tương truyền bản lục kinh
Tằng bả khoa danh liên quế tịch
Cánh lưu thanh ấm mãn hòe đình
Tâm vô tư lụy thất sinh bạch
Thi hữu cao ngâm sơn đối thanh
Thiên thọ Đẩu, Nam quan thái tại
Niên niên trường chiếu tử vi tinh”
Dịch nghĩa
TẶNG HẦU GIA VĂN ĐẨU
Một nhà có người cha và hai người con
Đạo học đươc thừa hưởng sáu bộ kinh thư
Từng chiếm bảng vàng các đợt thi cử
Nghỉ hưu vẫn vui vẻ rộn rã cả sân hòe
Lòng vô tư cửa nhà thanh bạch
Bạn thơ ngâm vang, núi cũng vọng lời
Trường thọ như núi, lòng thư thái
Tấm lòng son, trên đầu như có Sao tử vi mãi mãi chiếu soi
Hiện nay, ở xã An Thái, huyện An Lão, Thành phố Hải Phòng vẫn còn Từ đường Tam Tiến sĩ thờ ba cha con họ Nguyễn đều đỗ Tiến sĩ. Tên của các vị Tiến sĩ cũng được khắc trên bia đề danh Tiến sĩ hiện lưu giữ tại di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám./.
Thúy Hồng
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM NGUYỄN ĐỨC VĨ
Nguyễn Đức Vĩ (1700 – 1775) còn có tên là Nguyễn Vĩ, là người xã Phật Tích, huyện Tiên Du (nay là thôn Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh). Ông là con của Tiến sĩ Nguyễn Đức Ánh (đỗ khoa Ất Mùi 1715), cha của Tiến sĩ Nguyễn Duân (đỗ khoa Mậu Tuất 1778), bác họ Nguyễn Quýnh (đỗ Tiến sĩ khoa Bính Tuất 1766).
Nguyễn Đức Vĩ đỗ Giải nguyên (đỗ đầu) kỳ thi Hương. Năm 28 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Đinh Mùi niên hiệu Bảo Thái 8 (1727) đời Lê Dụ Tông. Sau khi thi đỗ, ông ra làm quan và trải qua nhiều chức vụ quan trọng, có nhiều đóng góp cho chính quyền Lê – Trịnh. Năm 1735, ông giữ chức Đô ngự sử, được thăng Hữu thị lang Bộ Lại. Năm 1736, ông giữ chức Đông các Hiệu thư, được thăng Hữu thị lang Bộ Hình (do có công đàn hặc Nguyên Công Hãng), đổi sang Hữu thị lang Bộ Binh, Tả thị lang Bộ Lại (1739), Bồi tụng (1743), Thượng thư Bộ Công kiêm Bộ Lại, Tế tửu Quốc Tử Giám, Nhập thị kinh diên, tước Nghĩa Phương hầu.
Tại khoa thi năm Canh Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 21 (1760), ông được triều đình giao nhiệm vụ làm Tri cống cử. Văn bia Tiến sĩ khoa thi 1760 có viết: “ Mùa xuân tháng 2 năm Canh Thìn chuẩn lời tâu của bộ Lễ, cho thi Hội các cống sĩ trong nước. Sai Bồi tụng Công bộ Thượng thư hành Lại bộ sự kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu Nhập thị kinh diên Nghĩa Phương hầu Nguyễn Vĩ làm Tri cống cử”. Tri cống cử là chức quan tương đương với Phó Chủ khảo của kỳ thi. Dưới thời Lê Trung hưng, triều đình thường chỉ định những vị Thượng thư đứng đầu các bộ hoặc Tế tửu, Tư nghiệp Quốc Tử Giám lần lượt đảm nhận những chức vụ này. Đặc biệt, khoa thi 1760 lấy đỗ được 5 người, trong đó có 2 người thuộc dòng họ khoa bảng nổi tiếng là Tiến sĩ Nguyễn Huy Cẩn (họ Nguyễn Huy ở Phú Thị - Gia Lâm, Hà Nội) và Tiến sĩ Nguyễn Khản (họ Nguyễn Tiên Điền – Nghệ An). Nguyễn Khản cũng chính là anh trai của Đại thi hào Nguyễn Du – tác giả Truyện Kiều nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Là người đứng đầu trường Quốc Tử Giám, chịu trách nhiệm chăm lo và rèn tập các sĩ tử, có thể nói Nguyễn Đức Vĩ đã có nhiều đóng góp to lớn cho trường Quốc Tử Giám – trung tâm giáo dục và đào tạo nhân tài lớn nhất của đất nước.
Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Đức Vĩ còn là người thanh bạch, cẩn thận. Hơn 18 năm làm quan, nhà không chút của thừa, ai cũng phục là liêm khiết. Năm 64 tuổi, ông về trí sĩ nhưng chỉ được ít lâu sau, chúa Trịnh Sâm lại mời ông ra làm quan, thăng làm Thượng thư Bộ Binh. Ông mất năm 1775, thọ 76 tuổi, được tặng hàm Thái bảo.
Hiện nay, tại xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh vẫn còn nhà thờ lưu danh 4 vị Tiến sĩ là cha, con, ông, cháu đều đỗ tiến sĩ dưới thời Lê, trong đó có Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Đức Vĩ. Tên ông cũng được khắc ghi trên bia đề danh Tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1727) đặt tại di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Thúy Hồng
LÊ QUÝ ĐÔN – NGƯỜI “BIẾT RỘNG, NGHE NHIỀU”
Lê Quý Đôn (1726 – 1784) người xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Năm 27 tuổi, ông đỗ Bảng nhãn khoa Nhâm Thân niên hiệu Cảnh Hưng 13 (1752) đời vua Lê Hiển Tông. Ông từng giữ nhiều chức quan trong triều như Nhập thị Bồi tụng, Hộ bộ Tả thị lang, Đô ngự sử, Tế tửu Quốc Tử Giám… Lê Quý Đôn được biết đến là một danh nhân có nhiều đóng góp về triết học, lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội, văn học, nghệ thuật. Suốt trọn đời làm quan, để biết rộng và nghe nhiều, Lê Quý Đôn đã tự đặt cho mình nhiệm vụ hàng đầu là vừa học tập, vừa biên soạn, nghiên cứu.
Ảnh: Tên tuổi của Bảng nhãn Lê Quý Đôn được vinh danh trên bia Tiến sĩ khoa Nhâm Thân niên hiệu Cảnh Hưng 13 (1752) tại di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám
Từ nhỏ, Lê Quý Đôn đã được biết đến với tài năng hiếm có: hai tuổi đã biết đọc chữ “hữu” và chữ “vô”, năm tuổi đã đọc được nhiều bài trong Kinh Thi, mười bốn tuổi đã học hết Tứ thư, Ngũ kinh và đọc đến cả Chu Tử, trong một ngày có thể làm được mười bài phú không cần viết nháp.
Khi nhìn thấy cảnh người dân đói rét, túng thiếu, nỗi cực nhọc của nông dân khi mất mùa và hạn hán, ông luôn day dứt. Ông cố tìm ra từ sách vở thời xưa những biện pháp kinh bang tế thế, ông tự mình đi vào đời sống để ghi chép và suy nghĩ từ những việc cụ thể hằng ngày. Khác với những nhà Nho xa rời thực tế, ông luôn bám sát đời sống xã hội, cố gắng biết rộng, nghe nhiều, luôn luôn suy nghĩ làm thế nào để giúp nước, giúp dân. Lê Quý Đôn nói: “căn bản lời nói, việc làm; then chốt sự học hỏi có bao giờ lại không dựa vào sự biết rộng, nghe nhiều”. Ông cũng từng viết về tinh thần cố gắng biết rộng, nghe nhiều của mình như sau: “Tôi vốn người nông cạn. Lúc còn bé thì thích chứa sách, lúc trưởng thành ra làm quan xem lại sách đã chứa trong tủ, vâng theo lời dạy lúc qua sân, lại được giao du với bậc hiền sĩ đại phu. Thêm vào đấy, phụng mệnh làm việc công, bốn phương rong ruổi. Đi đến đâu cũng để ý tìm tòi, phàm việc gì mắt thấy tai nghe đều dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời bình luận sơ qua, giao tiểu đồng đựng vào túi sách, lâu ngày tích tập sau mới chép thành từng thiên…”. “Dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời bình luận” là cách làm việc suốt đời của Lê Quý Đôn. Có thể nói ông đã đọc hết các sách mà ông tìm thấy. Đọc đến đâu, ghi chép đến đấy, chép xong, sắp xếp vào từng loại khác nhau, vừa hệ thống hóa kiến thức của mình, vừa cung cấp tư liệu giúp cho học trò.
Ông đã ghi những gương sách, những lời nói và việc làm tốt đẹp của người xưa và xếp thành những bộ sách quý như: Quần thư khảo viện, Thánh mô hiền phạm lục, Thư kinh diễn nghĩa, Vân đài loại ngữ… Ông cũng biên soạn nhiều sách về lịch sử với rất nhiều công phu sưu tầm và nghiên cứu. Không chỉ dừng lại ở chỗ giới thiệu những triều đại nối tiếp nhau, ông còn ghi lại rất chi tiết những phong tục, tập quán cùng những đặc điểm về lao động, về sinh hoạt, về văn hóa qua các thời kỳ.
Qua những di sản của Lê Quý Đôn, chúng ta thấy ông là người hiểu rõ lịch sử xa xưa của Việt Nam đến những việc cụ thể hằng ngày như sinh hoạt và ăn uống, từ những đặc điểm của chim muông, cây cỏ đến những phong tục tập quán của từng huyện, làng, từ những tư tưởng trong tôn giáo đến những nhận thức khoa học. Tác phẩm của Lê Quý Đôn đã đề cập đến nhiều vấn đề về thiên nhiên, xã hội và con người, thể hiện tài năng và trí tuệ của một danh nhân “biết rộng, nghe nhiều”.
Sưu tầm: Vũ Khiêu, Văn hiến Thăng Long, tập 1, NXB Hà Nội, 2017.
BÁT TRÀNG – LÀNG KHOA BẢNG THĂNG LONG
Bát Tràng nằm ở phía Bắc kinh đô Thăng Long, phía Nam Bắc Ninh – Kinh Bắc xưa. Đến đầu thế kỷ thứ 19, Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc. Năm 1948, làng hợp với hai làng Giang Cao, Kim Lan thành xã Quang Minh thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1965, xã Quang Minh đổi tên thành xã Bát Tràng. Bát Tràng, nằm ven sông Hồng, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Bát Tràng nổi tiếng khắp nơi không chỉ bởi nghề làm gốm truyền thống độc đáo mà còn là làng khoa bảng tiêu biểu đất Thăng Long.
Các Tiến sĩ của làng Bát Tràng thuộc năm dòng họ: Vương, Trần, Vũ , Lê Nguyễn, đặc biệt trong đó có 2 dòng họ (Lê, Nguyễn) có 2 anh em ruột cùng đỗ Tiến sĩ.
Mở đầu là Tiến sĩ Vương Thì Trung (1537- ?) có tên hiệu là Chất Trai, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu (1589) làm quan dưới thời nhà Mạc đến chức Hình khoa Đô cấp sự trung. Tiếp theo là Tiến sĩ Trần Thiện Thuật (1659 - ?) tự là Trung Mẫn, đỗ Tiến sĩ khoa Quý Hợi (1683) làm quan đến Hiến sát sứ và Tiến sĩ Nguyễn Đăng Liên (1676 - ?) đỗ Tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh (1706) làm quan đến Tự khanh.
Hai anh em ruột họ Lê là Lê Hoàn Viện (1688 - ?) đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh 11 (1715) đời vua Lê Dụ Tông, làm quan đến Thừa chính sứ Sơn Tây và em trai ông là Lê Hoàn Hạo (1699 - ?) đỗ đầu thi Hương, đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Mùi niên hiệu Bảo Thái 8 (1727), làm quan đến Đông các Đại học sĩ. Sau khi mất được tặng Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử, Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu. Ngoài ra họ Lê còn có Tiến sĩ Lê Danh Hiển (1757 - ?) thi Hương đỗ Giải nguyên, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Tỵ niên hiệu Cảnh Hưng (1785). Ông làm quan đến Giám sát ngự sử, Đốc đồng Thanh Hoa.
Hai anh em ruột họ Nguyễn là Tiến sĩ Nguyễn Đăng Liên (1676 - ?) và Tiến sĩ Nguyễn Đăng Cẩm (1678 – 1736). Nguyễn Đăng Cẩm đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh 14 (1718) đời vua Lê Dụ Tông. Trước đó, ông đỗ khoa Sĩ vọng, được bổ là Tri huyện. Ông làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám. Sau khi mất được tặng Phó đô ngự sử.
Vị Tiến sĩ cuối cùng thời phong kiến của làng Bát Tràng là Tiến sĩ Vũ Văn Tuấn (1803 – 1860) thi đỗ Tiến sĩ khoa Quý Mão (1843) đời Thiệu Trị. Từng làm Phó sứ sang nhà Thanh, được vua Tự Đức ban cho bốn chữ vàng “ Cần, lao, khả, lục” và bảy bài thơ Ngự chế. Làm quan đến Án sát Hưng Hóa, hàm Thị giảng Học sĩ. Tên tuổi của nhiều vị Tiến sĩ được khắc trên bia đề danh Tiến sĩ đặt tại di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Ngoài các vị đỗ Đại khoa, Bát Tràng còn có nhiều người đỗ Trung khoa, (Hương cống, Cử nhân). Trong số đó có Phạm Văn Bích, một trong “Tứ hổ Bắc Hà”: Siêu - Thiều - Bích – Quát (Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Văn Bích, Cao Bá Quát) là các học giả nổi tiếng từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19.
Không hổ danh xuất thân từ nơi “Đất thiêng, người giỏi nức quê xưa”, các nhà khoa bảng Bát Tràng thời quân chủ không chỉ có những đóng góp tích cực cho Đất nước mà còn góp phần khắc họa phong phú thêm nét văn hóa độc đáo của quê hương. Mặc dù là làng nghề nổi tiếng, có nhiều người giàu có nhưng người Bát Tràng rất trọng tri thức. Xưa kia, trong làng dù giàu có đến mấy mà không đỗ đạt thì cũng không được tham gia Hội Tư Văn. “Làng rất giữ lễ nghĩa, các quan đại thần khi về làng thì đến bờ đê đều bỏ võng lọng đi bộ vào làng, ở Đình làng, khi nào cũng giữ lễ nghĩa ngồi sau các bô lão”.
Thúy Hồng
TIẾN SĨ TRẦN CẢNH VỚI KHOA CỬ ĐẠI VIỆT
Trần Cảnh (1684 – 1758) tự Oánh Phủ, người làng Điền Trì, xã Hộ Xá, tổng Đột Lĩnh, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, đạo Hải Dương, nay là làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi Mậu Tuất (1718) là người nổi tiếng xứ Đông. Ông sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng ba đời liên tiếp đỗ Đại khoa: Cha ông là Trần Thọ (1630-1700) tự Nhuận Phủ đỗ Tiến sĩ Khoa Canh Tuất 1670. Con trai ông - Trần Tiến (1709-1770) đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1748).
Là một vị quan thanh liêm, ông được Vua Lê tin cẩn, giao cho đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng như: Giám sát Ngự sử, Phủ doãn phủ Phụng Thiên, Tế tửu Quốc Tử Giám, Tham tụng, Thượng thư.
Sự nghiệp của Trần Cảnh rất có “Duyên” với khoa cử. Ông từng nhiều lần được triều đình nhà Lê giao trọng trách coi việc trông thi, chấm thi :
Tháng 10 năm Canh Tý (1720), Ông làm Giám khảo trường thi Hương Kinh Bắc. Tháng 10 năm Bính Ngọ (1726), làm Giám khảo trường thi Hương Sơn Tây. Tháng 3 năm Đinh Mùi (1727), làm Đồng khảo thí kỳ thi Hội (Sử sách chép kỳ thi ngày lấy đỗ 12 Tiến sĩ, trong đó riêng Ông chấm đỗ đến nột nửa).
Tháng 10 năm Nhâm Tí (1732), Trần Cảnh được phong Đông các học sĩ. Đến tháng 10 năm Ất Mão (1735), ông tiếp tục được giao làm Giám khảo trường thi Hương Tuyên Quang. Cũng trong tháng 12 năm ấy, Ông được phong Hàn Lâm viện Thị giảng và liên tiếp đảm nhiệm chức: Quan Ấn quyển khoa thi Hội tháng 3 năm Bính Thìn (1736), Giám khảo thi Hương Nghệ An tháng 10 năm Mậu Ngọ (1738)...
Năm 1740, Trần Cảnh được bổ là Tế tửu Quốc Tử Giám; Năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743) giữ chức Đề điệu trường thi Thanh Hoa.
Trong tập kí sự Tiên Tướng công niên phả lục của Phó Đô Ngự sử Trần Tiến (con trai ông) còn chép lại sự kiện Ông làm Giám khảo trường thi Hương Kinh Bắc năm Canh Tí (1720):“Vì ngài (Trần Cảnh) làm quan nội trường, nên theo điển lệ, được phép lấy hoặc bỏ văn quyển. Lại sợ quan sơ khảo, phúc khảo không tinh tường, để sót nhân tài, nên ngài vất vả, tự mình đọc duyệt quyển, suốt đêm không nghỉ. Văn quyển của nho sinh Nguyễn Đức Đôn (người Vịnh Kiêu, Tiên Sơn, Bắc Ninh) ban đầu bị đánh trượt, khi ngài đọc duyệt lại, thấy hay, nâng lên đỗ thứ 2. Năm sau, khoa Tân Sửu (1721) thi Hội, Nguyễn Đức Đôn đỗ ngay Tiến sĩ. Đương thời đều khen ngài biết nhìn người”.
Có thể nói, mặc dù thời gian giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám không lâu(chỉ vài tháng sau khi nhậm chức Trần Cảnh lại được điều bổ về Hàn lâm viện), song con đường văn nghiệp của Ông luôn gắn bó với nền khoa cử Đại Việt. Sử sách triều đại sau (triều Nguyễn) vẫn còn chép: Trần Cảnh là người “có nhiều công trạng, được thăng tước Quận công”./.
TIẾN SĨ NHỮ ĐÌNH TOẢN VỚI TRƯỜNG QUỐC TỬ GIÁM
Tiến sĩ Nhữ Đình Toản (1703-1773) người xã Hoạch Trạch, huyện Đường An, trấn Hải Dương, nay là huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Làng Hoạch Trạch xưa còn có tên Nôm là làng Vạc, là vùng đất địa linh nhân kiệt, nổi tiếng về văn học, có truyền thống khoa bảng cha truyền con nối. Nhữ Đình Toản là con của Tiến sĩ Nhữ Tiến Hiền (đỗ khoa thi 1680) và làm quan đến chức Thượng thư bộ Hình, Bồi tụng; là anh họ của Nhữ Trọng Đài, cháu nội của Nhữ Tiến Dụng.
Từ nhỏ, Nhữ Đình Toản đã nổi tiếng thông minh và học giỏi. Năm 34 tuổi, ông đỗ Hội nguyên (đỗ đầu kì thi Hội) khoa Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736) đời vua Lê Ý Tông. Sau khi thi đỗ, ông trải qua nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình. Không những giỏi thơ văn mà còn có tài về quân sự nên ông nhiều lần được giao cầm quân đi đánh giặc. Đương thời, ông làm quan đến chức Hành Tham tụng, Nhập thị Bồi tụng, Thượng thư bộ Binh, Quốc Tử Giám Tế Tửu. Không chỉ là vị quan tài năng, đức độ, Nhữ Đình Toản còn là người thanh liêm, cương trực, thẳng thắn, dám bảo vệ lẽ phải, được Chúa trọng dụng và yêu mến.
Năm1756, ông được chúa Trịnh Doanh cử làm Tế tửu Quốc Tử Giám; phụng mệnh trông coi Văn Miếu, rèn tập sĩ tử và gây dựng nhân tài cho đất nước. Với cương vị là người đứng đầu trường Quốc Tử Giám, ông đã góp phần đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, trong số đó có nhiều người đỗ đạt, thành danh giúp ích cho triều đình và cho đất nước. Ông còn được giao trọng trách soạn bài ký đề danh trên bia Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 13 (1752) và khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) và người nhuận sắc bài ký trên 2 tấm bia Tiến sĩ của khoa thi 1752 và khoa thi 1757. Có thể nói, Tiến sĩ Nhữ Đình Toản là người có nhiều đóng góp đối với trường Quốc Tử Giám nói riêng và sự nghiệp giáo dục đào tạo nhân của đất nước nói chung. Tên tuổi ông được khắc trên bia đề danh Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1736) hiện lưu giữ tại di tích Quốc gia Đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám./.
HAI ANH EM ĐỖ TIẾN SĨ ĐỒNG KHOA
Khoa thi Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731) đời vua Lê Duy Phường lấy đỗ được 12 vị Tiến sĩ, trong đó có hai anh em Trần Danh Ninh (1703-1767) và Trần Danh Lâm (1704 -1776) người xã Bảo Triện, huyện Gia Định, nay là thôn Bảo Triện xã Nhân Thắng huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh đỗ đồng khoa. Người anh là Trần Danh Ninh đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, em trai là Trần Danh Lâm đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.
Hai anh em Trần Danh Ninh và Trần Danh Lâm ngay từ khi còn nhỏ đã rất ham học. Người anh là Trần Danh Ninh từ thi Hương đến thi Đình đều đỗ đầu Năm 21 tuổi Trần Danh Ninh đỗ Giải nguyên (đứng đầu kỳ thi Hương), năm 29 tuổi đỗ Hoàng giáp khoa Tân Hợi (1731). Năm 1740, tiến sĩ Trần Danh Ninh được phong Thị giảng viện Hàn lâm. Năm Quý Hợi (1743), ông giữ chức Tế Tửu Quốc Tử Giám. Sau này, ông theo Chúa Trịnh Doanh (1720-1767) đi dẹp loạn phía Nam có công được thăng Đại học sĩ Đông các. Mùa đông Nhâm Thân (1752), ông theo chúa đánh phía Tây. Năm sau dẹp xong giặc, được ban ơn thăng Hữu thị lang bộ Công. Năm 1761 ông được thăng làm Thị lang bộ Lễ, kiêm Tổng tài Sử quán. Năm Bính Tuất (1766), ông 64 tuổi, ông xin về hưu, được thăng Thượng thư bộ Lễ. Mùa xuân năm Đinh Hợi (1767), ông chưa kịp về làng thì mất. Triều đình tặng Thiếu bảo, tên thụy là Mẫn Đạt. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, sử gia Phan Huy Chú đã viết: “Ông là người cương quyết, nghiêm nghị, tự giữ cái phong thể của mình, việc giáp binh, việc tế lễ việc nào cũng làm được cả. Đến như ở chốn triều đình bàn việc chính trị thì ông rất khảng khái, công bằng, ngay thẳng, lẫm liệt, không ai dám phạm, có khuôn mẫu, khí độ bậc danh thần; bấy giờ ai cũng kính phục.”
Em trai Trần Danh Ninh là Trần Danh Lâm, năm 21 tuổi cùng anh đỗ thi Hương, năm 27 tuổi lại cùng anh đỗ Tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731). Đầu đời Cảnh Hưng, ông làm Đốc đồng Cao Bằng, có công dẹp giặc, thăng Hiệu lý viện Hàn lâm, ít lâu sau làm Đốc trấn. Năm Bính Dần (1746) ông được gọi về kinh thăng Hữu Thị lang bộ Công. Năm Đinh Mão (1747), chúa sai ông làm Đốc thị Nghệ An. Năm Kỷ Mão, ông được gọi về kinh làm ở bộ Lại. Năm Kỷ Sửu (1769), ông viện lệ xin về hưu, được thăng Thượng thư bộ Công, lại được gia tăng Thượng thư bộ Hình. Ông làm quan 39 năm . Năm Bính Thân (1776) Chúa Trịnh Sâm (1739-1782) nghĩ ông là quan cũ tuổi tác, đặc cách gọi ra làm việc ở bộ Lại. Được ít lâu ông mất, thọ 73 tuổi. Triều đình tặng Thiếu bảo, tên thụy là Trung lượng. Sử gia Phan Huy Chú cũng chép về ông: “Ông tính thanh liêm, khoan hòa, dễ dãi, không tranh giành với ai, đến đâu dân cũng nhớ ơn. Khi vào phủ làm Bồi tụng, khi ở đài Ngự Sử, khi giữ việc tuyển bổ quan lại; ai cũng suy tôn là người giữ lòng công chính, ông cùng với anh là Bảo Huy bá (Trần Danh Ninh) làm quan đồng thời, khi ở triều, khi ở quận đều có tiếng chính tánh tốt, đều thăng đến Thượng Thư rồi về hưu. Thực là phúc trọn vẹn của một nhà.”
Trường hợp hai em Trần Danh Ninh và Trần Danh Lâm ở Bảo Triện (bắc Ninh) cùng đỗ Tiến sĩ một khoa là một trong những minh chứng cho truyền thống hiếu học của các dòng họ, các làng khoa bảng ở mọi miền đất nước. Hiện nay, tên của hai vị Tiến sĩ này được khắc trên bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Tân Hợi 1731 được lưu giữ tại di tích Quốc gia Đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
LH
TIẾN SĨ DƯƠNG CHẤP TRUNG (1414 - 1469)
Dương Chấp Trung quê ở xã Sài Xuyên, huyện Kỳ Hoa-nay thuộc huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con của võ tướng Dương Công Cứ - Tiến sĩ võ được Vua ban Tráng hiến Đại vương Bàn thạch hầu, cai quản quân Cấm vệ của Triều đình nhà Lê.
Lúc còn nhỏ, Dương Chấp Trung được cha cho ăn học ở kinh thành và nổi tiếng là người thông minh văn hay, võ giỏi, khôi ngô tuấn tú, được Hoàng thân nhà Lê yêu mến cho vào hầu ở cung Tiềm Để khi vua Lê Nhân Tông chưa lên ngôi.
Khoa thi Mậu Thìn niên hiệu Thái Hòa 6 năm 1448 đời Lê Nhân Tông, ông thi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp). Sau khi thi đỗ, ông được Vua ban giữ chức Tham chính Thừa tuyên sứ. Dưới thời Vua Lê Thánh Tông, ông được thăng chức Đại lý Tự khanh (1467), sau thăng Hữu Thị lang bộ Hình. Ông là người được vua và triều đình nhà Lê yêu mến và kính trọng.
Khoa thi Kỷ Sửu niên hiệu Quang Thuận 10 (1469), ông được vua chọn làm Giám thí khoa thi Hội, lúc này ông đang giữ cương vị Hình bộ Hữu thị lang, sau được thăng Tả Thị lang. Ông là người thông minh cương trực, thẳng thắn có nhiều đóng góp với triều đình, thường xuyên ở bên cạnh tham chính, được nhà vua tin yêu.
Để tưởng nhớ công lao của ông đối với quê hương, đất nước và với dòng tộc, năm 2012, Hội đồng Họ Dương tỉnh Hà Tĩnh phát động con cháu công đức xây dựng lại Đền thờ Dương Chấp Trung. Đến nay, đền thờ đã hoàn thành và được công nhận là Di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh.
NGUYỄN QUAN QUANG – VỊ TRẠNG NGUYÊN ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM
Trạng nguyên Nguyễn Quang Quan (1222-?) người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, nay thuộc thôn Tam Sơn, xã Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Nguyễn Quan Quang sinh ra trong một gia đình nghèo, nhưng hiếu học. Không có tiền đi học, ông thường đứng ngoài cửa lớp nghe thầy giảng bài. Cảm phục trước ý chí hiếu học của Nguyễn Quang Quan, ông được thầy cho vào lớp học.
Nguyễn Quan Quang nổi tiếng thông minh học một biết mười. Chẳng bao lâu, ông đã lầu thông kinh sử, ứng khẩu thành thơ, luận bàn việc đời thông thái, uyên thâm. Ông đỗ Trạng nguyên khoa thi Đại tỉ thủ sĩ năm Bính Ngọ, niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình 15 (1246) đời Trần Thái Tông.
Trong lịch sử thi cử ở Việt Nam, kể từ khoa thi đầu tiên vào năm Ất Mão (1075) dưới triều vua Lý Nhân Tông, trải qua hơn 150 năm, đến năm 1239 dưới triều vua Trần Thái Tông (niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ 8) có 5 kỳ thi Đại khoa; nhưng cả triều Lý và triều Trần đều chưa lấy đậu Trạng nguyên. Các vị đỗ đầu các kỳ thi đó như: Lê Văn Thịnh, Mạc Hiển Tích, Bùi Quốc Khái, Trương Hanh và Lưu Miễn chỉ được lấy đỗ đầu nhất giáp. Mãi tới khoa thi thứ 6 (khoa Đại tỉ thủ sĩ) vào năm Bính Ngọ (1246), niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ 15, đời vua Trần Thái Tông mới có danh hiệu Tam khôi gồm: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Trong kỳ thi này, Nguyễn Quan Quang đã đậu Trạng nguyên; Phạm Văn Tuấn đậu Bảng nhãn; Vương Hữu Phùng đậu Thám hoa. Như vậy, có thể nói Nguyễn Quan Quang là vị Trạng nguyên đầu tiên của nước Đại Việt.
Sau khi vinh quy bái tổ, ông vào chầu vua để được đăng quan, nhà vua thấy ông cao to, khí phách hơn người, vua tỏ lòng quý mến và ban quốc tính. Từ đấy trong triều ngoài nội đều gọi ông là Trần Quan Quang.
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất (1258), Nguyễn Quan Quang có nhiều cống hiến nên được nhà vua thăng chức Bộc Xạ. Khi làm quan, ông hết lòng vì dân vì nước, thanh liêm, trung thực, được trong triều lẫn ngoài nội đều mến phục cả về tài và đức. Khi về già, ông về quê hương mở trường dạy học, sống một cuộc đời thanh đạm và công đức, lấy việc dạy trò làm nguồn vui. Người dân Tam Sơn cho rằng, ông là người mở đầu cho phát triển giáo dục tại quê hương.
Nơi Nguyễn Quang Quan dạy học về sau dân dựng lên một ngôi chùa để tưởng nhớ đến người "sống như tu" gọi là chùa Linh Khánh. Ngôi chùa ấy qua thời gian nay không còn nữa, hiện còn một cây hương đá được làm vào năm Chính Hoà 18 (1697), trong đó ghi công đức của Quan Quang với dân làng.
Sau khi Nguyễn Quan Quang mất, dân làng lập đền thờ trên núi Viềng, gọi là đền Viềng, để thờ ông làm thần thành hoàng, gọi là Bản thổ Thành Hoàng, Đại vương phúc thần. Triều đình cũng truy cho ông là Đại tư không.
BP
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM TRƯƠNG CÔNG GIAI
VỚI SỰ NGHIỆP ĐÀO TẠO, TUYỂN CHỌN NHÂN TÀI
Tế Tửu Quốc Tử Giám Trương Công Giai (1665 – 1728),người xã Thanh Tâm, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Từ nhỏ ông có tên là Trương Công, nổi tiếng thông minh, ông được tiếp thu kiến thức từ người cha tài hoa của mình. Bằng tài năng, học vấn uyên thâm của mình, ông đã đạt thứ hạng cao trong các kỳ thi Hương, thi Hội. Vào khoa thi Ất Sửu niên hiệu Chính Hòa thứ 6 (1685) dưới triều vua Lê Hy Tông, khi vừa tròn 21 tuổi, Trương Công đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, là một trong số ít những vị Tiến sĩ trẻ tuổi trong lịch sử khoa cử Nho học Việt Nam. Sau này ông mới đổi tên là Trương Công Giai.
Trong 43 năm làm quan dưới triều Lê - Trịnh, Trương Công Giai đã trải qua các chức: Hiệu thảo, Hữu Thị lang Bộ Công, Thanh Hoa Tham trấn, Phó Đô ngự sử, Đô ngự sử Ngự sử đài, Bồi tụng, Thượng thư Bộ Công rồi Thượng thư Bộ Hình, Quốc Tử Giám Tế tửu.
Theo “Văn Miếu – Quốc Tử Giám và 82 bia Tiến sĩ” (Ngô Đức Thọ), tại khoa thi năm Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 14 (1718), triều đình cử “Bồi tụng Ngự sử đài Đô Ngự sử Nhập thị Kinh diên thự Trung thư giám Cẩm Thượng nam Trương Công Giai làm Tri cống cử”. Sau đó, vào khoa thi Tân Sửu niên hiệu Bảo Thái 2 (1721), triều đình lại: “Sai Phó tướng thiếu bảo Thự quận công Trịnh Quế làm Đề điệu, Bồi tụng Công bộ Thượng thư kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu Lỵ Quận công Trương Công Giai làm Tri cống cử”. Đến khoa thi năm Giáp Thìn (1724), “Tri cống cử là Bồi tụng Hình bộ Thượng thư kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu Lỵ Quận công Trương Công Giai”. Như vậy, liên tiếp trong ba khoa thi Tiến sĩ vào các năm 1718, 1721, 1724, triều đình đều cử Trương Công Giai giữ chức Tri cống cử (tức Phó chủ khảo của kỳ thi). Những khoa thi này đã tuyển dụng được nhiều nhân tài xuất chúng, bổ sung cho bộ máy quan chức nhà nước lúc bấy giờ. Điển hình như khoa Mậu Tuất (1718) chọn được Vũ Công Tể người huyện Đông Anh (Hà Nội) đỗ Thám hoa, làm quan đến chức Tham tụng, Thượng thư Bộ Lại; hoặc như Hà Tông Huân, người Yên Định (Thanh Hóa) đỗ Bảng nhãn khoa Giáp Thìn (1724) làm quan đến chức Tham Tụng, Thượng thư Bộ Binh, Tế tửu Quốc Tử Giám.
Năm 1721, Trương Công Giai được bổ nhiệm giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám - quan đứng đầu Quốc Tử Giám. Vào thời gian này, nhà Lê - Trịnh rất chú trọng đến việc đào tạo nhân tài, tổ chức các kỳ thi Hương, Hội. Chúa Trịnh cũng quy định: quan Tế tửu và Tư nghiệp phải trực tiếp làm chức quan giảng dạy cho học trò trường Giám. Với tri thức và đức độ của mình, Trương Công Giai đã đào tạo, dạy dỗ được nhiều trò giỏi cho đất nước.
Có thể nói, Tế tửu Quốc Tử Giám Trương Công Giai đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp đào tạo nhân tài, tuyển dụng được nhiều nhân tài xuất chúng bổ sung cho bộ máy quan chức nhà nước lúc bấy giờ. Tên tuổi của ông được vinh danh trên tấm bia Tiến sĩ khoa thi Ất Sửu niên hiệu Chính Hòa thứ 6 (1685), hiện lưu giữ tại Di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám./.
An Nhiên
TINH THẦN HIẾU HỌC CỦA TIẾN SĨ NGUYỄN QUÁN NHO
Nguyễn Quán Nho (1638-1708), là người xã Vãn Hà, huyện Thụy Nguyên (nay là thị trấn Vạn Hà, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa), mồ côi cha từ nhỏ, mẹ (bà Trịnh Thị Phúc) đi làm thuê cho nhà giàu, tần tảo ở vậy nuôi con. Tương truyền, hàng ngày cậu bé Nguyễn Quán Nho theo mẹ đi làm, thấy thầy giáo dạy con nhà chủ, cậu áp tai vào vách để nghe lỏm lời thầy giảng, rồi lấy que vạch chữ lên nền đất học theo, về nhà thì vạch que lên thân cây xương rồng lên lá chuối, tối đến bắt đom đóm bỏ vào quả cà khoét ruột hoặc vỏ trứng làm đèn để học bài . Về sau, cậu được ông đồ làng Phủ Lý (nay thuộc xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa) nhận làm học trò.
Ảnh: Tên tuổi của Nguyễn Quán Nho được vinh danh trên bia Tiến sĩ khoa Đinh Mùi niên hiệu Cảnh Trị 5 (1667) đặt tại Di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu-Quốc Tử Giám
Nhờ tinh thần ham học, ý chí vượt khó, năm 30 tuổi Nguyễn Quán Nho đỗ Đình nguyên Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mùi niên hiệu Cảnh Trị 5 (1667) đời vua Lê Huyền Tông. Ông từng được cử đi sứ sang nhà Thanh (1681), làm quan đến chức Tham tụng, Binh bộ Thượng thư, Tri trung thư giám, là bậc đại thần có nhiều đóng góp cho đất nước. Tên tuổi của Nguyễn Quán Nho hiện còn lưu trên bia Tiến sĩ đặt tại Di tích Văn Miếu-Quốc Tử Giám.
Tinh thần hiếu học và ý chí quyết tâm vươn lên, vượt qua khó khăn để học giỏi và thành đạt, giúp dân, giúp nước của Ông mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ học trò học tập và noi theo.
An Nhiên
LÀNG CÓT - QUÊ HƯƠNG CỦA 10 VỊ TIẾN SĨ
Làng Cót còn có tên là Hạ Yên Quyết nay thuộc phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Đây là một trong 21 làng khoa bảng tiêu biểu của nước ta thời quân chủ và cũng là một trong 5 làng khoa bảng tiêu biểu của đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến.
Làng Hạ Yên Quyết trải dài theo sông Tô Lịch, ngay cửa ngõ phía Tây kinh thành Thăng Long. Từ xưa dân gian đã có câu: “Mỗ, La, Canh, Cót tứ danh hương” hay “Nhất Mỗ, nhì La, thứ ba Canh Cót”. Mỗ ở đây tức là Tây Mỗ và Đại Mỗ; La tức La Khê, La Cả; Canh tức Vân Canh, Xuân Phương bây giờ; Cót tức làng Hạ Yên Quyết để phản ánh truyền thống khoa bảng, hiếu học nơi đây.
Hạ Yên Quyết xưa có tên là Bạch Liên Hoa Xã. Đến đời Lê sơ, làng Bạch Liên được đổi thành làng Yên Quyết với hai Thôn Thượng và Hạ thuộc huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, xứ Sơn Tây. Đến đầu thế kỷ XVIII, Yên Quyết mới tách ra làm hai là Thượng Yên Quyết tức làng Giấy, và Hạ Yên Quyết tức làng Cót. Dưới thời quân chủ, làng có tới 10 vị tiến sĩ trong đó có Tiến sĩ Nguyễn Nhật Tráng đỗ khoa thi năm 1595, Tiến sĩ Nguyễn Dụng Triêm năm 1602 và Tiến sĩ Nguyễn Vinh Thịnh năm 1659 hiện vẫn còn bia được lưu giữ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám. Tiến sĩ Nguyễn Như Uyên và Nguyễn Xuân Nham đỗ các khoa thi năm 1469 và năm 1499, theo sử sách hai khoa thi này đều được dựng bia đặt tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, nhưng hiện không còn.
Các vị Tiến sĩ của làng Hạ Yên Quyết sau khi thi đỗ đều được giữ các chức vụ trọng trách trong triều đình. Họ đã mang tài đức của mình ra giúp vua, giúp nước. Trong đó phải kể đến Hoàng giáp Nguyễn Như Uyên làm quan đến chức Lại bộ Thượng thư, chưởng lục bộ, kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám (chức quan đứng đầu Quốc Tử Giám) – trường học cao cấp nhất thời quân chủ. Giữ vị trí quan trọng đứng đầu cơ quan giáo dục cao nhất bấy giờ hằn Nguyễn Như Uyên đã được vua Lê Thánh Tông đánh giá cao tài học và phẩm chất đạo đức của ông. Bời đây là nơi đào tạo, rèn tập nhân tài – nguyên khí của quốc gia Đại Việt.
Hạ Yên Quyết cũng như các làng nổi tiếng khoa bảng rất coi trọng việc học. Bên cạch 10 vị đỗ tiến sĩ thì làng còn rất nhiều người đỗ hương cống thời Lê, cử nhân thời Nguyễn. Làng Hạ Yên Quyết cùng với các làng khoa bảng ở Thăng Long đã góp phần xây dựng lên một kinh kỳ ngãn năm văn hiến.
Danh sách 10 vị tiến sĩ làng Hạ Yên Quyết dưới thời quân chủ: Tiến sĩ Hoàng Quán Chi đỗ Đệ nhất giáp kỳ thi “Thái học sinh” khoa Quý Dậu, niên hiệu Quang Thái thứ 6 (năm 1393); Tiến sĩ Hoàng Bồi đỗ khoa Mậu Thìn (1568); Tiến sĩ Nguyễn Quang Minh có đỗ Thái học sinh, làm quan tới chức Nội thị hành khiển thời nhà Hồ; Tiến sĩ Nguyễn Quang Huệ đỗ khoa thi năm Ất Mùi (1535); Tiến sĩ Nguyễn Như Uyên đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Kỷ Sửu (1469); Tiến sĩ Nguyễn Xuân Nham đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mùi, năm Cảnh Thống thứ hai (1499); Tiến sĩ Nguyễn Khiêm Quang đỗ Tiến sĩ khoa Quý Mùi, niên hiệu Thống Nguyên năm thứ hai (1523); Tiến sĩ Nguyễn Nhật Tráng đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa Ất Mùi niên hiệu Quang Hưng năm thứ 18 (1595); Tiến sĩ Nguyễn Dụng Triêm đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Dần, niên hiệu Hoằng Định thứ 4 (1602), đời vua Lê Kính Tông; Tiến sĩ Nguyễn Vinh Thịnh đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ năm thứ 2 (1659) đời Lê Thần Tông.
Bia đề danh tiến sĩ khoa thi năm 1595 khắc tên các vị Tiến sĩ trong đó có Tiến sĩ Nguyễn Nhật Tráng
LH
TƯ NGHIỆP QUỐC TỬ GIÁM NGUYỄN PHI KHANH
Tư nghiệp Quốc Tử Giám Nguyễn Phi Khanh (?-1428), tên thật là Nguyễn Ứng Long, hiệu Nhị Khê, quê quán xã Chi Ngãi, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Sau dời về xã Ngọc Ổi, nay là xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội. Ông là cha của Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất Nguyễn Trãi.
Sinh trưởng trong một gia đình thường dân, nhưng ông đã nổi tiếng giỏi văn chương từ nhỏ. Vì vậy, ông được Trần Nguyên Đán (hiệu Băng Hồ), một vị đại thần tôn thất nhà Trần mời về nhà dạy học cho con gái mình. Theo gia phả dòng họ Nguyễn Quy ở Chi Ngãi: “Nguyễn Phi Khanh là nhà nho có thực tài, được quan Tư đồ Trần Nguyên Đán mời vào phủ dạy học cho con gái Trần Thị Thái, sau kết duyên cùng con gái quan Tư đồ rồi sinh ra Nguyễn Trãi”.
Năm Giáp Dần (1374), ông thi đậu Thái học sinh nhưng không được phong làm quan. Năm 1400 sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi, Nguyễn Phi Khanh nhận được chiếu chỉ của triều Hồ ra giúp nước. Hồ Quý Ly cho ông đổi tên là Phi Khanh, đồng thời cử giữ chức Hàn lâm viện Học sĩ, rồi lần lượt thăng lên chức Thống chương Đại phu, Đại lý tự khanh kiêm Trung thư Thị lang, Tư nghiệp Quốc Tử Giám.
Năm 1406, quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh tham gia cuộc kháng chiến chống quân Minh cùng nhà Hồ. Sau đó, ng cùng vua tôi nhà Hồ bị giặc bắt giải về Kim Lăng. Trên đường đi, hai con trai ông là Nguyễn Trãi và Nguyễn Phi Hùng xin đi theo ông phụng dưỡng cho trọn chữ hiếu. Nhưng Nguyễn Phi Khanh đã khuyên Nguyễn Trãi trở về để tìm cách rửa thẹn cho nước, phục thù cho cha, thế mới là đại hiếu. Nguyễn Trãi nghe theo, tìm vào Thanh Hóa giúp Lê Lợi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh thắng quân Minh, giải phóng đất nước. Năm Mậu Thân (1428), Nguyễn Phi Khanh mất ở Trung Quốc, thọ 73 tuổi. Nguyễn Phi Hùng đã đem hài cốt cha về táng tại núi Tam Tiêu (nay thuộc xã Hoàng Hoa Thám, Chí Linh). Từ đó, núi Tam Tiêu được đổi tên thành núi Báo Đức.
Không chỉ là bậc hiền sĩ đau đáu vì vận nước, Nguyễn Phi Khanh còn là bậc văn sĩ được nhiều danh sĩ đương thời đánh giá cao. Ông viết khá nhiều tác phẩm văn, thơ thể hiện tâm tư của tầng lớp sĩ phu trước tình cảnh của đất nước, nhân dân. Các tác phẩm còn lại của ông có: "Nhị Khê thi tập", "Nguyễn Phi Khanh thi văn tập". Do thất lạc, tác phẩm văn học của Nguyễn Phi Khanh chỉ còn lẻ tẻ 77 bài được Lê Quý Đôn sưu tập vào "Toàn Việt thi lục thế kỷ XIX". Thơ văn của Nguyễn Phi Khanh dù không còn nhiều, nhưng đã cho thấy những đóng góp của ông cho nền văn học Việt Nam thời trung đại.
TIẾN SĨ ĐỖ NHUẬN VÀ BỐN LẦN GIỮ CHỨC QUAN ĐỘC QUYỂN TRONG CÁC KÌ THI ĐÌNH
Đỗ Nhuận (1446 - ?), người xã Kim Hoa, huyện Kim Hoa, thừa tuyên Kinh Bắc, nay thuộc thôn Bạch Đa, xã Kim Hoa, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất.
Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình như: Đông các Hiệu thư, Hàn lâm viện Thị độc, Thượng thư, Đông các đại học sĩ. Vua Lê Thánh Tông phong ông làm Tao Đàn phó nguyên soái, mời dự các buổi bình thơ của vua. Đặc biệt, Tiến sĩ Đỗ Nhuận được triều đình Đại Việt tín nhiệm giao trọng trách làm Độc quyển (Quan chấm thi) trong 4 kỳ thi Đình để tuyển chọn nhân tài cho đất nước gồm các khoa thi: Ất Mùi (1475), Tân Sửu (1481), Đinh Mùi (1487) và Quý Sửu (1493).
Trong các kỳ đại khoa, triều đình đều cử những viên quan tài năng, uyên bác và có tinh thần trách nhiệm cao làm giám khảo. Hệ thống quan trường thi gồm có Đề điệu, Giám thí, Tri cống cử, Độc quyển... Phần lớn họ đều là những bậc khoa bảng tên tuổi, có nhiều đóng góp đối với triều đình. Độc quyển là một chức quan được cử ra trong kỳ thi Hội, thi Đình có trách nhiệm chấm thi. Khi vua ngự lãm, quan Độc quển đem trình quyển thi và thực hiện đọc quyển thi của các sĩ nhân để nhà vua xét định thứ bậc cao thấp.
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, khoa thi Hội năm Ất Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 6 (1475), có 3.200 sĩ nhân trong nước tham dự. Kết quả lấy đỗ 43 người. Đến ngày 11 tháng 5 (âm lịch), Thân Nhân Trung, Quách Đình Bảo, Đỗ Nhuận làm Độc quyển, giúp triều đình kén chọn nhân tài.
Khoa thi Hội năm Tân Sửu niên hiệu Hồng Đức thứ 12 (1481) có hơn 2.000 cử nhân trong nước tham gia, lấy đỗ 40 người. Đến kì thi Đình, Vua ngự điện Kính Thiên ra đầu bài văn sách. Theo Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm Tân Sửu (1481) tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám cho biết Đỗ Nhuận cùng với Ngô Sĩ Liên,Thân Nhân Trung là các vị quan Độc quyển của kì thi.
Đến tháng 3 năm Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487), Bộ Lễ theo lệ tổ chức cho các sĩ nhân trong nước thi Hội, lấy đỗ 60 người. Đến ngày mồng 7 tháng 4 (âm lịch) tổ chức kì thi Đình, hoàng thượng ngự ở hiên điện, thân hành ra đề văn sách hỏi về đạo trị nước. Sau khi các quan Độc quyển là Đỗ Nhuận cùng với Thân Nhân Trung, Nguyễn Đôn Phục, Lương Thế Vinh, Đào Cử, Ông Nghĩa
Đạt dâng quyển đọc, nhà vua xem quyển xong, lấy đủ tam khôi: Trạng nguyênTrần Sùng Dĩnh (sau làm quan đến chức Hộ bộ Thượng thư), Bảng nhãn Nguyễn Đức Huấn (làm quan đến chức Thượng thư, từng đi sứ sang nhà Minh), Thám hoa Thân Cảnh Vân (làm quan đến chức Thị lang); 31 người được ban Tiến sĩ xuất thân; 28 người được ban Đồng Tiến sĩ xuất thân. Sáu năm sau, Đỗ Nhuận lại được triều đình cử làm quan Độc quyển của khoa thi năm Quý Sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493). Lúc này, ông đang đảm nhiệm chức vụ Hàn lâm viện Thị độc, Đông các Đại học sĩ. Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: Mùa xuân, tháng 3, niên hiệu Hồng Đức thứ 24, triều đình tổ chức thi Hội các cử nhân trong nước, lấy đỗ 48 người. Đến ngày 21 tháng 4, vua ra hiên điện, thân hành ra đề sách văn. Sai Thân Nhân Trung, Nguyễn Bá Ký, Đỗ Nhuận, Lê Quảng Chí, Lương Thế Vinh, Ngô Luân làm Độc quyển.
Cả bốn khoa thi Đình này về sau đều được dựng bia đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, nhưng hiện chỉ có các khoa thi Ất Mùi (1475), Tân Sửu (1481), Đinh Mùi (1487) vẫn còn bia tại Di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám; riêng khoa thi Quý Sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493) hiện không còn bia tại di tích.
Với bốn lần giữ chức quan Độc quyển trong các kì thi Đình do triều đình tổ chức, Đỗ Nhuận đã đóng góp rất lớn trong việc tuyển chọn nhân tài cho đất nước. Những người thi đỗ các khoa thi này sau đó đã được bổ nhiệm với nhiều vị trí khác nhau, nhưng dù đảm nhiệm chức vụ gì, họ luôn là những người đem hết lòng ra phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân.
(Ảnh: Họ tên, quê quán của Tiến sĩ Đỗ Nhuận được vinh danh trong văn bia Tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Quang Thuận thứ 7 (1466) hiện lưu giữ tại Di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám)
An Nhiên
CHUYỆN VỀ ÔNG TRẠNG LÀM THƠ LUI ĐƯỢC QUÂN GIẶC
Đó là câu chuyện kể về Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu (1499-?), người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, nay là thôn Tam Sơn, xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống khoa bảng có cha là Ngô Thầm đỗ Bảng nhãn khoa Quý Sửu (1493) đời vua Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị thư, thành viên Hội Tao đàn và bác ruột là Ngô Luân, đỗ tiến sĩ khoa thi 1475, làm quan đến chức Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ.
Ngô Miễn Thiệu ngay từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh và ham học. Năm 20 tuổi, ông đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Dần, niên hiệu Quang Thiệu 3 (1518) đời Lê Chiêu Tông. Sau khi thi đỗ, ông làm quan dưới thời nhà Lê, thăng đến chức Lại Bộ Thượng thư kiêm Đô ngự sử, Chưởng Hàn lâm viện sự, Nhập thị Kinh diên, tước Lý Khê bá. Năm 1527, Mạc Đăng Dung lấy ngôi nhà Lê, ông một mực trung thành với nhà Lê, không chịu ra làm quan, lui về Tam Sơn chuyên tâm vào việc dạy học. Gia phả họ Ngô Tam Sơn chép: "Sau khi về quê, con cháu đến chào, có người hỏi sao không ở lại làm quan mà lại về quê sống cảnh điền viên?" Ông nói: "Ta làm tôi nhà Lê, cha Bảng nhãn, con Trạng Nguyên, nếu nay theo Mạc thì chẳng khác nào Triệu Phổ mặc áo đội mũ nhà Chu mà đứng trong triều vua nhà Tống".
Vốn đã có dã tâm xâm lược nước ta, viện cớ nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, năm 1534, nhà Minh sai Binh Bộ Thượng thư Mao Bá Ôn mang quân sang hỏi tội nhà Mạc. Đội quân xâm lược áp sát biên giới. Mao Bá Ôn gửi điệp văn thăm dò kèm theo bài thơ “Vịnh bèo” với nội dung ngang ngược coi khinh dọa nạt quân dân nước Việt yếu ớt, mỏng manh như đám bèo trôi dạt trên mặt nước:
"Tràn lan ruộng nước nổi bồng bềnh
Khắp chốn xem ra gốc bám nông
Riêng có rễ mầm, riêng có lá
Dám sinh cành cội dám sinh lòng
Tụ rồi lúc tán hay chăng tá
Nổi đó khi chìm có biết không?
Đến lúc chiều trời dông bão nổi
Quét ra hồ biển sạch bong bong"
Biết Ngô Miễn Thiệu là người có tài và giỏi thơ văn nên vua Mạc đã cho mời Ông về triều ứng phó. Trước khi đi, Ông nói với gia quyến: “Ta muốn giúp nhà Mạc là vì quốc thể chứ không phải vì danh lợi. Nếu trái mệnh vua, dòng họ sẽ gặp nguy. Nếu quân Bắc tràn vào thì sinh linh trăm họ sẽ điêu đứng, thống khổ mất thôi..." .
Đến nơi, đọc xong bài thơ Vịnh bèo, Ngô Miễn Thiệu liền đối ứng:
"Chen nhau vảy gấm khó luồn kim
Cành rễ liền nhau chẳng kể thân
Tranh với bóng mây trên mặt nước
Hé dung ánh nhật lọt dòng tâm
Nghìn trùng sóng đánh thường không vỡ
Muôn trận phong ba cũng chẳng chìm
Nào cá nào rồng trong ấy ẩn
Cần câu Lữ Vọng khó mà tìm"
Mao Bá Ôn đọc xong bài thơ của Ông, biết nước Việt có nhiều nhân tài, hào kiệt nên đành tạm cho lui binh. Sau khi làm thơ mà lui được giặc, Ngô Miễn Thiệu được Mạc Đăng Doanh giữ lại làm quan, thăng đến chức Thượng thư Bộ Lễ. Còn người đời sau gọi ông là “lập thi khoái tặc” nghĩa là làm thơ mà lui được giặc.
Tiếp nối sự nghiệp của cha, hai con trai của ông là Ngô Diễn và Ngô Dịch sau này đều đỗ đạt cao. Con trai trưởng Ngô Diễn đỗ Tiến sĩ khoa thi Canh Tuất niên hiệu Cảnh Lịch 3 (1550) đời Mạc Phúc Nguyên, làm quan đến chức Lễ bộ Tả thị lang, Lễ bộ Thượng thư. Con trai thứ là Ngô Dịch, đỗ tiến sĩ khoa Bính Thìn (1556), sau làm quan đến chức Tham chính, Hộ bộ Tả thị lang, Thượng thư.
Là vị quan thanh liêm, người thầy đức độ, trí tuệ, Ngô Miễn Thiệu đã có nhiều đóng góp tích cực cho công cuộc bảo vệ biên cương bờ cõi và đào tạo nhân tài cho đất nước. Tên tuổi Ông mãi được ghi trên bia Tiến sĩ tại Văn Miếu Bắc Ninh và trên tấm bia của khoa thi 1518 hiện lưu giữ tại di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám./.
(Ảnh: Bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm 1518 có khắc tên tuổi quê quán của Trạng nguyên Ngỗ Miễn Thiệu)
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM NGUYẾN NHÂN THIẾP
VÀ TRUYỀN THỐNG KHOA BẢNG HỌ NGUYỄN Ở KIM ĐÔI-BẮC NINH
Nguyễn Nhân Thiếp (1452 - ?) người xã Kim Đôi, huyện Võ Giàng, nay thuộc thôn Kim Đôi, xã Kim Chân, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh). Từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh và ham học, năm 1466, đời vua Lê Thánh Tông, khi mới 15 tuổi, ông cùng với anh trai là Nguyễn Nhân Bỉ dự thi Tiến sĩ và cùng đỗ Đại khoa.
Sau khi vinh qui bái tổ, Nguyễn Nhân Thiếp được bổ làm Tri huyện Lập Thạch nhưng ông vẫn quyết tâm tiếp tục học tập, một năm sau (1467) ông thi đỗ khoa Hoành từ và được vào làm việc ở Bí thư giám lúc mới 16 tuổi. Ông từng giữ chức Hàn lâm viện thị thư, Công bộ Tả thị lang, Binh bộ Hữu thị lang. Thời Vua Lê Hiến Tông ( 1497-1504), Nguyễn Nhân Thiếp được phong Đông các Đại học sĩ kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám. Sau được cử đi sứ nhà Minh, rồi thăng Thượng thư Bộ Lại, đứng đầu một trong 6 Bộ của triều đình nhà Lê.
Là một vị Tiến sĩ bước chân vào con đường quan lộ từ khi còn rất trẻ, song với đức độ khiêm nhường và tài năng kiệt xuất, Nguyễn Nhân Thiếp đã có nhiều đóng góp cho Vương triều Lê sơ. Nhà sử học Phan Huy Chú từng nhận xét: ông là nhà Nho có đức nghiệp, có tài thơ văn được nể trọng thời bấy giờ.
Nguyễn Nhân Thiếp xuất thân từ dòng họ khoa bảng nổi tiếng cả nước. Họ Nguyễn ở Kim Đôi – Bắc Ninh có tới 18 người đỗ Tiến sĩ. Các anh, em của ông đều đỗ đạt cao dưới thời vua Lê Thánh Tông và giữ các trọng trách quan trọng trong triều đình. Điều đặc biệt là tất cả đều đỗ Đại khoa từ khi còn rất trẻ:
Nguyễn Nhân Bỉ (1448-?) thi đỗ Tiến năm 1466 lúc 19 tuổi, làm quan đến chức Binh bộ Thượng thư;
Nguyễn Nhân Bồng (sau đổi tên là Nguyễn Xung Xác (1451 - ?) đỗ Tiến sĩ năm 1469 lúc 19 tuổi, làm quan đến chức Lễ bộ Tả Thị lang;
Nguyễn Nhân Dư (1456 - ?) đỗ Đại khoa năm 1472 lúc 17 tuổi, từng là thành viên Hội Tao đàn;
Nguyễn Nhân Đạc (1458 - ?) đỗ Tiến sĩ 1470 lúc 18 tuổi, làm quan đến chức Hàn lâm viện hiệu thảo.
Bia đề danh Tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Quang Thuận 7 (1466)
Tiếp nối truyền thống của dòng họ, các con trai của Nguyễn Nhân Thiếp cũng đều đỗ Đại khoa: Nguyễn Hoành Khoản (1471-?) đỗ Tiến sĩ năm 1490; Nguyễn Nhân Huân (1473-?) đỗ Bảng nhãn năm 1496 và Nguyễn Nhân Kính (1479-?) đỗ Tiến sĩ năm 1496.
Thật là một dòng họ có truyền thống khoa bảng hiếm có! Sách “ Lịch triều hiến chương loại chí” chép: “Làng Kim Đôi, huyện Võ Giàng có họ Nguyễn từ đời Nhân Thiếp trở xuống 3 đời thi đỗ 13 người. Đầu đời Lê, 5 anh em đồng thời đều đỗ cả, con cháu nối nhau làm quan to trong triều”.
Hiện tên tuổi của Nguyễn Nhân Thiếp và các Tiến sĩ họ Nguyễn ở Kim Đôi – Bắc Ninh vẫn được lưu danh trên các tấm bia Tiến sĩ đặt tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà Nội và Văn Miếu Bắc Ninh, là những tấm gương sáng cho đương thời và hậu thế muôn đời noi theo./.
Thúy Hồng
TIẾN SĨ NGÔ THÌ NHẬM
Ngô Thì Nhậm (1746-1803) người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ (nay thuộc Hà Nội). Năm 30 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi niên hiệu Cảnh Hưng 36 (1775) đời vua Lê Hiển Tông. Ông làm quan dưới triều Lê – Trịnh, sau này được vua Quang Trung tin dùng. Ông đã trải qua nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình như Giám sát ngự sử, Hữu thị lang bộ Công thời Lê – Trịnh; Lại bộ tả thị lang, Thượng thư bộ binh, Tổng tài Quốc sử quán thời vua Quang Trung.
Khu vườn bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Tiến sĩ Ngô Thì Nhậm là người học rộng tài cao, luôn đặt lợi ích của quốc gia lên trên hết. Ông dám thẳng thắn kiến nghị với chúa Trịnh ba chính sách lớn của triều đình ở ba lĩnh vực: chính trị, giáo dục và pháp luật. Theo ông, phải có một chính sách rõ ràng về mặt chính trị để trên dưới một lòng tuân theo, pháp luật phải nghiêm minh và giáo dục phải sâu rộng.
Bia đề danh Tiến sĩ khoa Ất Mùi niên hiệu Cảnh Hưng 36 (1775) đời vua Lê Hiển Tông
Năm 1788, khi Nguyễn Huệ ra bắc lần hai, xuống lệnh tìm kiếm quan lại cũ của triểu Lê – Trịnh ra giúp việc nước, Ngô Thì Nhậm đã không bảo thủ cố chấp như một số cựu thần khác mà đón nhận chính sách trọng dụng nhân tài của vua Quang Trung. Ông cùng với Ngô Văn Sở được vua Quang Trung giao trông coi công việc toàn cõi Bắc Hà. Trên cương vị này, ông đã thuyết phục nhiều sỹ phu Bắc Hà về với nhà Tây Sơn, góp phần lớn vào việc củng cố nền chính trị ở phía bắc. Sau khi đánh thắng quân Thanh, vua Quang Trung giao cho ông công việc bang giao với nhà Thanh. Và một lần nữa, với tài năng ngoại giao của mình, Ngô Thì Nhậm đã hoàn thành xuất sắc trọng trách, ông thuyết phục nhà Thanh không báo thù, tránh được nạn binh đao xảy ra. Qua thư từ, công văn và ba lần Ngô Thì Nhậm lên biên giới phía bắc đàm phán, năm 1790 triều đình Mãn Thanh đã phải tiếp nhận sứ thần An Nam. Năm 1792, ông được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh.
Có thể nói, trong suốt cuộc đời, Ngô Thì Nhậm luôn thể hiện một con người hết lòng vì nước, vì dân, luôn đặt lợi ích của quốc gia, của nhân dân lên đầu. Là một nhà chính trị, nhà ngoại giao trong bối cảnh xã hội thời Lê – Trịnh có nhiều biến động, ông luôn giữ phẩm chất cao đẹp của kẻ sĩ. Tên của ông được khắc trên bia Tiến sĩ khoa thi năm 1775 đặt tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
LH
HAI CHA CON CÙNG ĐỖ TIẾN SĨ TRONG MỘT KHOA THI
Khoa Nhâm Thìn niên hiệu Quang Hưng 15 (1592) đời vua Lê Thế Tông, có hai cha con người xã Lý Trai, nay là xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An cùng đi thi là Ngô Trí Tri (1537 – 1628) và Ngô Trí Hòa (1565 – 1626). Vượt qua nhiều thí sinh, cả hai cha con đã xuất sắc đăng khoa, ghi danh trên bảng vàng khoa thi năm đó. Cha là Ngô Trí Tri đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân, còn con là Ngô Trí Hòa đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp).
Đây có thể coi là hiện tượng độc nhất vô nhị!
Trong lịch sử khoa cử Việt Nam có không ít gia đình, dòng họ có nhiều thế hệ anh em, cha con, chú cháu thi đỗ Tiến sĩ nhưng cùng đỗ trong một khoa thi thì chỉ có Ngô Trí Tri và Ngô Trí Hòa. Tương truyền, cảm kích trước tinh thần hiếu học của cha con họ Ngô, khi vinh quy bái tổ, nhà Vua đã ban tặng bức trướng đề 10 chữ vàng: “Khoa danh thiên hạ hữu, phụ tử thế gian vô”, nghĩa là: đỗ đại khoa trong thiên hạ có nhiều người, nhưng cha con cùng đỗ một khoa thì thế gian chưa thấy bao giờ.
Hiện tên tuổi của hai cha con vẫn cùng được lưu danh trên tấm bia Tiến sĩ của khoa thi năm 1592 đặt tại Di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Nội dung bài ký trên bia nhắc đến sự kiện này: “Ai nấy đều lấy làm sung sướng được trông thấy cảnh ấy, đời thái bình dưới triều vua thánh, có cha con cùng đỗ một khoa, thực là một hội văn minh tốt đẹp”.
Bia Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn niên hiệu Quang Hưng 15 (1592) có khắc tên của hai cha con Ngô Trí Tri và Ngô Trí Hòa
Sau khi thi đỗ, cả hai cha con đều thành đạt trên đường quan lộ. Ngô Trí Tri làm quan đến chức Giám sát ngự sử. Ngô Trí Hòa từng được bổ làm Án sát sứ Sơn Tây, Đô cấp sự Lại khoa, Hữu Thị lang Bộ Hình, Hữu Thị lang Bộ Lại, Thượng thư Bộ Hộ kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám. Năm 1618, Ngô Trí Hòa làm tờ khải trình chúa Trịnh nêu rõ 6 điều cần thiết sửa đổi nền chính trị trong đó có năm điều đề cập đến việc nuôi sức dân, giúp dân có tài sản để an cư lạc nghiệp: “Xin sửa đức chính để cầu mệnh trời giúp; Xin đè nén kẻ quyền hào để nuôi sức dân; Xin cấm phú dịch phiền hà để đời sống nhân dân được đầy đủ; Xin bớt xa xỉ để của cải nhân dân được thừa thãi; Xin dẹp trộm cướp để dân được yên; Xin sửa sang quân chính để bảo vệ tính mạng cho dân. Triết vương Trịnh Tùng khen hay và nhận lời” (trích Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, 2006, tr.315).
Nối tiếp truyền thống khoa bảng của cha ông, sau này, con trai của Ngô Trí Hòa là Ngô Sĩ Vinh tiếp tục đỗ Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1646), cháu năm đời của ông là Ngô Công Trạc và Ngô Hưng Giáo cũng đều đỗ Tiến sĩ. Cả dòng họ đời đời dốc lòng phụng sự đất nước.
Nhà sử học Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí từng có lời ca ngợi họ Ngô xứ Nghệ: “cha con đồng khoa, phúc nhà lâu dài, càng là việc xưa nay ít thấy”. Thật là những tấm gương sáng về tinh thần hiếu học cho các thế hệ muôn đời noi theo./.
An Nhiên
BẢNG NHÃN TRỊNH THIẾT TRƯỜNG - NGƯỜI HAI LẦN ĐƯỢC KHẮC TÊN TRÊN BIA TIẾN SĨ Ở VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM
Bảng nhãn Trịnh Thiết Trường (1390 - ?) người xã Đông Lý, huyện Yên Định (nay là thôn Đông, xã Hạnh Phúc, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), mồ côi cha từ nhỏ, nổi tiếng học giỏi, thông minh, nhanh nhẹn.
Năm 1442, Trịnh Thiết Trường tham dự kì thi Hội khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo 3. Trước khi đi thi, ông hạ quyết tâm thi đỗ Tiến sĩ Cập đệ (xếp hàng trong Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa). Tuy nhiên, khi yết bảng vàng, Trịnh Thiết Trường xếp thứ 14 trong số 23 người đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ. Tương truyền, chưa đạt được thứ hạng cao như mục tiêu đề ra, ông xin chưa nhận mũ áo vua ban và xin đi thi lại. Việc làm của ông đã làm sĩ tử trong nước sửng sốt. Có người bảo ông dại, có người thì tấm tắc khen ông là người có chí lớn, thế nào cũng đỗ đạt cao, làm nên sự nghiệp lớn.
Trịnh Thiết Trường quyết tâm miệt mài đèn sách, nỗ lực ôn luyện trong suốt sáu năm. Quả nhiên, khoa thi Mậu Thìn (1448) niên hiệu Thái Hòa 6 đời vua Lê Nhân Tông, ông đỗ Bảng nhãn, đứng thứ hai trong hàng Tam khôi.
Bia Tiến sĩ khoa thi Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo 3 (1442) đời vua Lê Thái Tông tại di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám
Bia Tiến sĩ khoa thi Mậu Thìn niên hiệu Thái Hòa 6 (1448) đời vua Lê Nhân Tông tại di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám
Không lâu sau, câu chuyện quyết tâm thi lại đạt thứ hạng cao của Bảng nhãn Trịnh Thiết Trường được truyền đến tai vua Lê Nhân Tông. Nhà vua rất hài lòng, gia ân cho ông cùng các vị đỗ Tam khôi được đi dạo chơi, thăm vườn Ngự uyển. Trịnh Thiết Trường làm quan đến chức Hàn lâm Viện thị giảng, Đô cấp sự trung, sau thăng đến chức Hữu thị lang, tước Nghi quốc công. Tháng 11 năm 1457, ông được vua tín nhiệm cử đi sứ sang nhà Minh.
Tên tuổi của Trịnh Thiết Trường được khắc trên cả hai tấm bia Tiến sĩ hiện lưu giữ tại di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám (tấm bia của khoa thi Nhâm Tuất (1442) và khoa thi Mậu Thìn (1448). Tấm gương sáng về tinh thần hiếu học và ý chí quyết tâm vươn lên, thành công trong sự nghiệp của ông được hậu thế ca tụng, lưu truyền và noi theo./.
An Nhiên
THÍ SINH 82 TUỔI LỀU CHÕNG ĐI THI
Khoa thi Hương trường Nghệ An năm Thành Thái thứ 12 (1900) có một thí sinh râu tóc bạc phơ đi thi, ai nấy đều thấy lạ, hỏi ra mới biết đó là cụ Đoàn Tử Quang sinh năm 1818, quê ở làng Phụng Đạt, huyện Hương Sơn – Hà Tĩnh.
Đoàn Tử Quang (1818 - 1928) người làng Phụng Đạt, xã Phụng Công, huyện Hương Sơn (nay là xã Đức Hòa, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Ngay từ nhỏ đã là người sáng dạ, thông minh, học giỏi nhưng đi thi chỉ đỗ tú tài hai lần: lần thứ nhất vào năm 49 tuổi và lần thứ hai vào năm 66 tuổi. Nghe theo lời khuyên của mẹ, khoa thi Canh Tý (1900) dưới triều Nguyễn, Đoàn Tử Quang quyết tâm lều chõng đi thi.
Ảnh: Thí sinh lều chõng đi thi. (Nguồn: Thư viện Viện Thông tin khoa học xã hội)
Ảnh: Quang cảnh Trường thi Hương Nam Định( Nguồn: Thư viện Viện Thông tin khoa học xã hội).
Khi vào trường thi, các quan giám khảo đều lo lắng cho sức khỏe của cụ. Người thì cho rằng tuổi cao sức yếu như vậy không biết Đoàn Tử Quang có vượt qua được các kỳ thi hay không. Một số khác thì cho rằng để cụ gần các quan trường thi cho dễ bề chăm sóc. Khi Quan Chánh chủ khảo cầm tay cụ và hỏi : Mắt cụ có mờ không? Cụ trả lời : Dạ, hơi mờ ạ! Hỏi tiếp : Chân cụ có mỏi không? Cụ nói: Dạ, còn có thể đi bộ, chạy, quỳ, đứng lễ bái được ạ!..
Như nhiều thí sinh khác, Đoàn Tử Quang cũng ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh làm các bài thi, sau khi làm bài thi xong lại tự tay nộp quyển, kéo xe, chở lều chõng ra về. Vượt qua được kỳ thi đầu tiên, đến kỳ thi thứ hai, còn lại 35 người, trong đó có tên Đoàn Tử Quang. Các quan giám khảo trường thi thấy chữ viết của cụ không hề run, đậm nhạt, mất nét như người ta tưởng mà còn đẹp, rõ ràng hơn nhiều thí sinh khác. Kết quả, qua bốn trường thi, Đoàn Tử Quang đứng hàng thứ hai, chỉ sau Phan Bội Châu nhưng vì phạm lỗi trường thi nên chỉ xếp thứ 29/30 thí sinh tham dự kỳ thi lúc bấy giờ.
Phan Bội Châu vì cảm phục tài năng và ý chí học hành xưa nay hiếm, đã tặng cụ đôi câu đối:
“Xảo thật trời kia, xảo thật nguyệt kia, hẵng đem mùi cay đắng thử khách tài hoa, đã toan phụ tám mươi năm nợ nần thư kiếm;
Lạ thay người ấy, sướng thay người ấy, muốn ôm mớ văn chương về trả tạo hóa, mà lại xem muôn ngàn dặm cái phong vân”.
82 tuổi vẫn còn đi thi đã là chuyện lạ. Nhưng lạ hơn, vua Thành Thái cảm động trước ý chí tiến thủ của Đoàn Tử Quang đã ban cho cụ chức Huấn đạo. Cụ sống trải qua 13 đời vua, từ vua Gia Long đến vua Bảo Đại, mất năm 1928, thọ 110 tuổi.
Tấm gương hiếu học, kiên trì, không hề nản chí, không kể tuổi tác của cụ Đoàn Tử Quang thật đáng để hậu thế chúng ta noi theo./.
NHÀ GIÁO - THÁM HOA VŨ THẠNH (1664- 1727)
Thầy Vũ Thạnh (1664- 1727) người làng Đan Loan, huyện Đường An, nay là thôn Đan Loan, xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ngay từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, ham học, giỏi văn chương; năm 22 tuổi, đỗ Đình nguyên, Thám hoa khoa Ất Sửu, năm Chính Hoà thứ 6 (1685), làm quan đến chức Thiêm đô Ngự sử, Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Bồi tụng.
Các đại biểu tham dự Hội thảo làm lễ Dâng hương tại nhà Thái học
Trải qua hơn 40 năm làm quan, hơn 30 năm trực tiếp giảng dạy, Nhà giáo - Thám hoa Vũ Thạnh đã đào tạo nhiều thế hệ học trò xuất sắc, trong đó có nhiều người đỗ đại khoa, giữ các chức vụ quan trọng trong triều đình.
Năm 1698, sau khi từ quan, Thám hoa Vũ Thạnh về mở trường dạy học ở Hào Nam (nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội). Học trò khắp nơi về theo học rất đông. Nhiều khi lớp học không chứa hết, học trò phải mượn thuyền nan ghé sát hồ để nghe được lời thầy giảng. Khi dạy học, Thầy Vũ Thạnh luôn đề cao tư duy, sự sáng tạo của học trò. Thày chủ trương cải cách văn phong, bỏ lối viết sáo rỗng, tán tụng hư danh mà đi sâu vào cách viết hàm súc về những vấn đề thiết thực của cuộc sống.
Toàn cảnh Hội thảo Khoa học về Thám hoa Vũ Thạnh
Cùng với trường của Tiến sĩ Nguyễn Đình Trụ (xã Nguyệt Áng, nay là xã Đại Áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội), trường Hào Nam đã trở thành một trường tư có tiếng của đất Thăng Long lúc bấy giờ.
Không chỉ có nhiều đóng góp cho nền giáo dục, văn hóa của đất nước với nhiều tên tuổi học trò nổi tiếng và những áng văn, thơ, bia ký lưu giữ trên khắp các tỉnh thành (Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Bắc Giang, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Thanh Hóa...), Thầy Vũ Thạnh còn trực tiếp dạy dỗ em và con trai thành đạt. Khoa thi Nhâm Thìn, niên hiệu Vĩnh Thịnh 8 (1712), em trai Thầy là Vũ Huyên và con trai Vũ Huy đều đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Bởi vậy, dân gian vẫn lưu truyền câu ca: “Đồng triều tam Tiến sĩ; Nhất nhật lưỡng vinh quy” (nghĩa là: cùng một triều vua mà gia đình có ba người đỗ Tiến sĩ, một ngày trong họ có hai người cùng vinh quy).
Tên tuổi của Thầy được khắc ghi trên tấm bia Tiến sĩ khoa thi 1685 đặt tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám và mãi lưu giữ trong lòng Dân tộc như một tấm gương nhà giáo tiêu biểu của giáo dục Việt Nam thế kỷ 17-18./.
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM THÂN NHÂN TRUNG
Thân Nhân Trung (1419 – 1499) là người xã Yên Ninh, huyện Yên Dũng, nay là thôn Yên Ninh, Thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Hà Bắc. Ông đỗ Hội nguyên, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm Kỷ Sửu (1469) đời vua Lê Thánh Tông. Ông là người khai khoa cho truyền thống khoa bảng của làng Yên Ninh. Sau ông, có 9 người đỗ Đại khoa, trong đó có 2 con trai và cháu nội của ông.
Thân Nhân Trung là người mở đầu cho một gia tộc khoa bảng ba đời liên tiếp có người đỗ Tiến sĩ và cùng làm quan dưới thời vua Lê Thánh Tông. Khoa thi Tân Sửu (1481), con trai thứ của ông là Thân Nhân Vũ, 38 tuổi đỗ Tiến sĩ. Khoa thi Đinh Mùi (1487) cháu nội ông là Thân Cảnh Vân, 25 tuổi đỗ Thám hoa. Khoa thi Canh Tuất (1490), con trai đầu của ông là Thân Nhân Tín, 52 tuổi đỗ Tiến sĩ. Vua Lê Thánh Tông đã ca ngợi họ Thân bằng hai câu thơ: Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển/ Nhị thân phụ tử mộc ân vinh (Mười anh em họ Trịnh kế nhau quý hiển, Hai cha con họ Thân, cùng tắm gội ân vinh).
Đền thờ Tiến sĩ Thân Nhân Trung ở thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, Bắc Giang
Sau khi đỗ Tiến sĩ, ông từng bốn lần được vua cử làm quan độc quyển trong các kỳ thi đại khoa. Đó là các khoa thi Đình năm Ất Mùi (1475), năm Canh Tuất (1490), năm Quý Sửu (1493), năm Bính Thìn (1496), trong đó có khoa thi năm Canh Tuất (1490), con trai ông là Thân Nhân Tín đỗ Tiến sĩ. Ông làm quan đến chức Lại Bộ Thượng thư, Chưởng Hàn lâm viện kiêm Đông các Đại học sĩ, Tế tửu Quốc Tử Giám .
Năm Giáp Thìn (1484) phụng mệnh vua, Thân Nhân Trung soạn bài văn bia khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3(1442). Trong bài văn bia ông viết: “ Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết..." Bài văn bia đã trở thành kim chỉ nam cho nền giáo dục nước nhà qua nhiều thời đại.
Năm Hồng Đức thứ 26 (1495), Lê Thánh Tông lập hội thơ Tao Đàn, là Tao Đàn đô nguyên súy, phong cho Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận làm Tao Đàn Phó đô nguyên súy. Ông còn cùng với vua Lê Thánh Tông, Nguyễn Trực soạn bộ Thiên Nam dư hạ (Thiên Nam dư hạ tập); đây là cuốn sách khá đồ sộ, được biên soạn công phu, trên 10 năm mới hoàn thành, ghi chép đầy đủ các mục: Thơ, văn, điển lệ, điều luật, chinh chiến, quan chức, thiên văn, địa lí, lịch sử… của nhà Lê, từ Lê Thánh Tông trở về trước.
Đông các Đại học sĩ, Tế tửu Quốc Tử Giám Thân Nhân Trung không chỉ là vị quan đại thần đầu triều có uy tín và tài năng, đức độ. Ông còn là nhà giáo dục mẫu mực, tấm gương sáng về tinh thần hiếu học của quê hương, đất nước. Những lời trên văn bia của ông đã trở thành áng văn bất hủ lưu truyền đến muôn đời.
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM NGUYỄN DUY THÌ VỚI VAI TRÒ GIÁM THÍ VÀ TRI CỐNG CỬ
Nguyễn Duy Thì (1571- 1651), người xã Yên Lãng, huyện Yên Lãng, phủ Tam Đới (nay là thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc). Năm 27 tuổi, ông đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Tuất, niên hiệu Quang Hưng thứ 21 (1598) đời vua Lê Thế Tông. Trải qua nhiều chức vụ trọng yếu trong triều, nhiều năm giữ chức Tư nghiệp, Tế tửu Quốc Tử Giám, ông có nhiều đóng góp cho nền giáo dục khoa cử nước nhà. Ngoài ra, ông còn trực tiếp 3 lần đảm nhiệm các chức quan trong các kỳ thi đại khoa tuyển chọn hiền tài cho đất nước.
Ảnh: Bia tiến sĩ khoa Mậu Tuất niên hiệu Quang Hưng thứ 21 (1598)
Năm 1613, Nguyễn Duy Thì đang giữ chức quan Thiêm Đô Ngự sử tại Ngự sử đài có nhiệm vụ “đàn hặc các quan, nói bàn về chính sự hiện thời. Phàm các quan làm trái phép, chính sự hiện thời có thiếu sót, đều được xét hoặc trình bày, cùng là xé bàn về thành tích của các nha môn đề lĩnh, phủ doãn, trấn thủ, lưu thủ, thừa ty, và xét hỏi các vụ kiện về người quyền quý ở Kinh ức hiếp, về người cai quản hà lạm…” giữ vững kỷ cương phép nước. Vì vậy, kỳ thi Hội khoa Quý Sửu hiệu Hoằng Định thứ 14 (1613), ông được giao chức Giám thí (quan coi thi), có trách nhiệm giám sát quá trình tổ chức thi cử.
Mười năm sau, vào khoa thi năm Quý Hợi niên hiệu Vĩnh Tộ 15 (1623), Nguyễn Duy Thì đang là Tả thị lang Bộ Lễ giữ việc lễ nghi, tế tự, yến tiệc, trường học, thi cử…, ông tiếp tục được triều đình tin dùng giao nhiệm vụ Giám thí trong kỳ thi Hội, để đảm bảo kỳ thi diễn ra theo đúng quy định của triều đình.
Đến kỳ thi Đình năm Đinh Sửu niên hiệu Dương Hòa 3 (1637), Nguyễn Duy Thì đang giữ chức Thượng thư Bộ Binh kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám, ông đảm nhiệm chức Tri Cống cử. Chức quan Tri Cống cử chỉ đứng sau chức quan Đề điệu, được coi như Phó chủ khảo của kỳ thi. Triều đình thường chỉ định những vị Thượng thư đứng đầu các bộ hoặc các vị quan đại thần giữ chức này.
Trong ba lần giữ chức quan trong Giám thí và Tri cống cử các kỳ đại khoa. Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Duy Thì cùng các các vị quan trường đã phát huy tinh thần trách nhiệm của người cầm cân nảy mực, trực tiếp giúp triều đình tuyển chọn 34 vị Tiến sĩ Nho học. Điều này đã góp phần tạo dựng và bồi dưỡng tầng lớp trí thức, nhân tài cho đất nước. Trong số các vị Tiến sĩ đó, không ít người sau này đã trở thành trụ cột của triều đình, có nhiều đóng góp trong việc giữ gìn và phát triển nền văn hóa giáo dục nước nhà. Tên tuổi và quê quán của ông được khắc trên bia Tiến sĩ khoa thi năm Mậu Tuất (1598) hiện đang lưu giữ tại Di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám./.
An Nhiên
VỊ TRẠNG NGUYÊN CUỐI CÙNG CỦA
CHẾ ĐỘ KHOA CỬ NHO HỌC VIỆT NAM
Nền khoa cử Nho học Việt Nam (1075 – 1919) có 46 vị Trạng nguyên là những người tài năng, đức độ và có nhiều cống hiến cho đất nước trên nhiều lĩnh vực. Trong đó Trạng nguyên Trịnh Tuệ là vị Trạng nguyên cuối cùng, từng giữ chức Tế Tửu Quốc Tử Giám.
Trịnh Tuệ (1704 - ?) nguyên quán của ông ở xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tình Thanh Hóa, nhưng trú quán tại xã Bất Quần, tức xã Quảng Thịnh, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa ngày nay. Năm 33 tuổi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736) đời Lê Ý Tông. Năm Mậu Tý (1731) ông được Chúa phong làm Đông các Đại học sĩ quan thiêm sai phủ liêu. Năm Kỷ Mùi (1739) ông được thăng làm Thượng thư Bộ Lại. Đến năm Tân Dậu (1741) ông được làm Tế tửu Quốc Tử Giám chăm lo việc gây dựng nhân tài tại Quốc Tử Giám. Năm Tân Mùi (1752), lúc ấy ông đang làm Thừa chính sứ Sơn Nam, Chúa đã triệu ông cùng một số vị quan khác về kinh, cầm bút khám hỏi các án kiện.
Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết khoa thi đầu tiên lấy đỗ Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) là khoa thi năm 1247. Khoa thi này Trạng nguyên Nguyễn Hiền là người đỗ đầu. Dưới triều Trần, Lê có rất nhiều khoa thi được tổ chức nhưng không phải khoa thi nào cũng lấy đỗ Tam khôi. Khoa thi năm Bính Thìn (1736) đời Lê Ý Tông, Trịnh Tuệ đỗ Trạng nguyên là người cuối cùng có được học vị này. Sau khoa thi năm 1736, các kỳ Đại khoa dưới triều Lê Trung Hưng vẫn tổ chức gần 20 kỳ thi nữa, song không có ai đỗ Trạng nguyên. Đến triều Nguyễn, triều đình tiếp tục tổ chức các khoa thi Đại khoa nhưng có lệ không lấy đỗ Trạng nguyên. Nên trong nền giáo dục khoa cử giáo dục dưới các triều đại quân chủ của nước ta, Trạng nguyên Trịnh Tuệ là vị Trạng nguyên cuối cùng.
(Ảnh: Bia tiến sĩ khoa thi Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736))
Hiện nay, họ tên và quê quán của Trạng Nguyên Trịnh Tuệ được khắc trên tấm bia Tiến sĩ khoa thi năm Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736) đặt tại Di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Tên tuổi và những đóng góp của ông luôn được ghi lại trong sử sách, ông là tấm gương sáng cho các thế hệ đương thời và hậu thế noi theo.
Bùi Bích Phương
TIẾN SĨ TRẦN CẢNH VỚI NÔNG NGHIỆP NƯỚC NHÀ
Trần Cảnh (1684 – 1758) người xã Điền Trì, huyện Chí Linh, nay là thôn Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ Đệ tam giáp khoa Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 14 (1718) đời Lê Dụ Tông. Tiến sĩ Trần Cảnh có nhiều gắn bó với Quốc Tử Giám. Thuở còn trẻ ông đã từng theo học ở nơi này, sau này lại có dịp quay lại giữ cương vị Tế tửu Quốc Tử Giám, chăm lo việc rèn luyện nhân tài giúp đất nước. Tấm bia Tiến sĩ ghi tên ông hiện vẫn đang lưu giữ tại Di tích Quốc gia Đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Bia Tiến sĩ khoa thi Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh 14 (1718) tại Di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu-Quốc Tử Giám
Trong suốt 40 năm làm quan, Trần Cảnh từng trải qua nhiều trọng trách như: Hàn lâm viện Thị chế, Đông các Học sĩ, Phủ doãn Phủ Phụng Thiên, Tế tửu Quốc Tử Giám, Thượng thư các Bộ: Hình, Binh, Lễ… Là người có tài về nông nghiệp, ông được triều đình giao trọng trách làm Khuyến nông sứ hai phủ Nam Sách và Kinh môn thuộc xứ Hải Dương. Trần Cảnh đã chiêu mộ dân ly tán ở các huyện, tiến hành khai hoang lập ấp ở một số làng xã dọc triền sông Kinh Thầy, từ Nam Sách, Chí Linh, Kinh Môn (Hải Dương) đến Đông Triều (Quảng Ninh), Thủy Nguyên (Hải Phòng). Ông đã thực thi nghiêm cẩn các chính sách ruộng đất của triều đình, tích cực phân chia lại ruộng đất ở những vùng chức trách được giao.
Nhà thờ họ Trần-Điền Trì,thôn Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
Trần Cảnh có thời gian gắn bó, nghiên cứu về nghề nông nên ông đã soạn sách Minh nông chiêm phả ghi chép về thời tiết, khí tượng và sự chiêm nghiệm đối với nghề nông để truyền dạy cho nhân dân. Đáng tiếc sách Minh nông chiêm phả đã thất truyền, chỉ còn bài tựa ghi chép tỉ mỉ, công phu còn lại trong cuốn Niên phả lục. Với những đóng góp quý báu trong nông nghiệp, Tiến sĩ Trần Cảnh được coi như một trong những nhà nông học tiên phong trong lịch sử Việt Nam./.
An Nhiên
Nguyễn Quý Đức (1648-1720), người xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Ông hiệu là Đường Hiên, 29 tuổi đỗ Thám hoa (khoa thi Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Trị này không lấy đỗ Trạng nguyên).
Tượng thờ Danh nhân Nguyễn Quý Đức
Năm Canh Ngọ (1690), Nguyễn Quý Đức làm Chánh sứ sang nhà Thanh cùng Nguyễn Danh Nho. Năm Giáp Tuất (1794) thăng Tả Thị lang bộ Lễ, làm Bồi tụng ở phủ Chúa. Năm 1695, được thăng Đô Ngự sử. Năm 1708, được thăng Thượng thư Bộ Binh, được phong Tá lý công thần. Sinh thời, ông là một vị quan thanh liêm, ông cấm đoán mọi việc phiền hà, hạch sách, nhũng nhiễu dân. Ông là người khoan dung, cảm thông với nỗi khó khăn, vất vả của dân chúng. Năm 1714, ông được thăng hàm Thiếu phó, tước Liêm Quận công. Năm 1717, thăng Thái phó Quốc lão, vinh phong Tá lý công thần.
Nhà thờ Tam Đại Vương (Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Quý Ân, Nguyễn Quý Kính)
Lê Quý Đôn trong "Toàn Việt thi lục" viết: "Tính ông nghiêm nghị, cẩn trọng và độ lượng. Ở ngôi tể tướng hơn 10 năm, sửa sang noi theo pháp độ, cất nhắc kẻ hiền tài, là một tể tướng giỏi thời thái bình". Dân gian có câu đồng dao ngợi khen ông "Tể tướng Quý Đức, thiên hạ hưu tức" (Tể tướng Quý Đức làm thiên hạ yên vui). Đó là những phần thưởng vô giá mà bao giờ cũng cao hơn chức tước bổng lộc.
Sử thần Phan Huy Chú nhận xét: “Ông là người khoan hậu, trầm tĩnh. Ngày thường, thì tiếp ai thì dễ dàng, vui vẻ. Khi bàn luận trước mặt chá, việc gì chưa thoả đáng, ông cố giữ ý kiến mình, bàn đến ba, bốn lần, không ai ngăn được. Ông làm văn không cần trau chuốt mà ý sâu. Triều đình có chế tác gì lớn, phần nhiều do tay ông thảo. Ông làm tể tướng 10 năm, về chính sự chuộng khoan hậu…”.
Sinh thời, Nguyễn Quý Đức làm nhiều thơ, có hai tập: "Sứ trình thi tập" và "Thi châu tập", nhưng nay chỉ còn lại gần 90 bài thơ cả Hán và Nôm, được ghi chép chủ yếu trong "Toàn Việt thi lục" và "Nguyễn Quý văn phả"./.
Sưu tầm
Đền thờ Nghiêm tướng công từ tại xóm Giếng, xã Quan Độ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh là nơi thờ Tướng quân Nghiêm Kế, tổ tiên của dòng họ Nghiêm ở Quan Độ. Đặc biệt, đền còn là nơi thờ hai danh nhân khoa bảng là Nghiêm Phụ và Nghiêm Ích Khiêm.
Ảnh: Tượng thờ Tướng quân Nghiêm Kế tại nhà thờ
Theo “Nghiêm thị gia phả”, Nghiêm Kế chính là đời thứ hai của dòng họ Nghiêm sinh sống trên vùng đất Quan Độ. Khi cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của triều đại Trần diễn ra lần thứ nhất năm 1258, ông đã trở thành một trong những vị tướng đảm nhận vị trí quan trọng trong cuộc kháng chiến. Sau khi cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi, ông được triều đình ban chức Đặc tiến Phụ quốc - Bắc vệ Đại tướng quân, tước Hầu, và tấn phong là Quốc bình hành.
Đền còn là nơi thờ hai nhà khoa bảng họ Nghiêm là Nghiêm Phụ và Nghiêm Ích Khiêm - Hậu duệ của Tướng quân Nghiêm Kế. Nghiêm Phụ sinh năm Canh Ngọ - 1450. Năm 1473, Nghiêm Phụ dự khoa thi Hương và đỗ Tứ trường. Năm 1478, ông đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức 9, làm quan đến chức Thừa Chính sứ. Nghiêm Ích Khiêm sinh năm Kỷ Mão (1459), mất năm Kỷ Mùi (1499). Khoa thi năm khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490) đời Lê Thánh Tông, ông tham gia kỳ thi Đình và đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp). Sau ông chuyển sang chức võ, làm quan đến chức Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ.
Ảnh: Cổng nhà thờ Tướng quân Nghiêm Kế
Đền được xây dựng từ thời Lê, đến những năm đầu thế kỷ XX, với mục đích tiêu thổ kháng chiến nên di tích đã được dỡ bỏ. Sau khi hòa bình lập lại, con cháu dòng họ Nghiêm đã tiến hành dựng lại nhà thờ ngay trên nền đất cũ. Đền thờ ngày nay gồm các hạng mục công trình: cổng tam quan, nhà Hữu vu, Tiền tế và Hậu cung. Khu vực thờ tự chính bao gồm Tiền tế và Hậu cung được xây dựng theo kiến trúc chữ Nhị, mái được lợp ngói mũi hài. Tiền tế là nếp nhà ngang rộng 5 gian để trống, là nơi hội họp, bàn bạc các sự kiện quan trọng của dòng họ Nghiêm. Năm 2005, tại gian Tiền tế, họ Nghiêm đã cho dựng bia đá khắc hai mặt chữ Hán và chữ Quốc ngữ với nội dung tóm tắt thế thứ tổ tiên của dòng họ Nghiêm. Hậu cung được chia làm ba gian thờ, trong đó, gian giữa là nơi thờ cụ Nghiêm Kế, Nghiêm Phúc Tuấn và Nghiêm Yết. Gian bên trái và phải là nơi thờ chung tổ tiên họ Nghiêm, trong đó có hai vị đỗ Đại khoa là Nghiêm Phụ và Nghiêm Ích Khiêm. Gian giữa Hậu cung, phía sau hương án là bức tượng của Bắc vệ Đại tướng quân Nghiêm Kế uy nghiêm. Tượng làm bằng gỗ mít, cao khoảng 80cm, được tạc với tư thế chân buông cân đối phía trước, đầu đội mũ bó sát kiểu phốc đầu, mặc áo thụng dài, tay trái úp đặt lên đầu gối, tay phải cầm thẻ bài. Gương mặt tượng được tạc đầy đặn, phương phi, chân mày và mắt đều xếch lên, hai tai lớn và dày. Hằng năm, ngày 10 tháng 3 âm lịch, con cháu họ Nghiêm trên khắp cả nước sẽ tề tựu tại đền thờ để tổ chức ngày Giỗ Tổ, tưởng nhớ tổ tiên.
Cùng với các di tích khác, Đền thờ Bắc vệ Đại tướng quân là một trong những di tích tiêu biểu của làng Quan Độ. Ngày 20/4/1995, Di tích được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích quốc gia. Đây là các công trình tín ngưỡng văn hóa chứa đựng nhiều giá trị và ý nghĩa góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật truyền thống của quê hương đất nước.
Lâm Thùy Ngân
Hội nguyên, Tiến sĩ Nhữ Đình Toản (1703 - 1774) quê quán tại xã Hoạch Trạch, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, xứ Hải Dương, nay là làng Hoạch Trạch (hay còn gọi là làng Vạc), xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, là một danh thần thời Lê - Trịnh. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học, hiếu nghĩa, nổi danh khoa bảng với bốn đời liên tiếp đã có 5 người đỗ đại khoa.
Ảnh: Cổng nhà thờ Tiến sĩ Nhữ Đình Toản
Năm 34 tuổi, ông đỗ Hội nguyên Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1736) niên hiệu Vĩnh Hựu đời Lê Ý Tông. Khoa thi năm Bính Thìn được tổ chức dưới triều vua Lê Ý Tông. Các vị quan được triều đình cử làm nhiệm vụ tại khoa thi lần này gồm có: Phó tướng Hữu Đô đốc Cảnh Quận công Trịnh Diễn làm Đề điệu, Bồi tụng Công bộ Thượng thư Huy Lâm hầu Ngô Đình Thạc làm Tri cống cử, Bồi tụng Lại bộ Hữu Thị lang Gia Lạc bá Dương Lệ, Hộ bộ Hữu Thị lang Đông Thọ bá Phạm Minh làm Giám thí. Khoa thi Bính Thìn lấy đỗ 15 người, trong đó Nhữ Đình Toản (người làng Hoạch Trạch) đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.
Ảnh: Nhà thờ Tiến sĩ Nhữ Đình Toản
Năm 1738, Nhữ Đình Toản bắt đầu con đường hoạn lộ. Trong gần 35 năm, làm quan cả ngạch văn và võ, ở chức vụ nào ông cũng hoàn thành tốt chức trách, biết cương nhu, tiến thoái hợp nghi, được đương thời và hậu thế đánh giá cao. Nhữ Đình Toản từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như: Thái sứ (1742), Thượng thư Bộ Binh, Tham tụng, tước Bá Trạch hầu. Về sau, ông chuyển sang làm võ quan, như Hiệu điểm, rồi Tả Đô đốc, tước Trung Phái hầu. Khi về hưu, ông được đặc ban Quốc lão. Là vị quan được Chúa tin cẩn, Nhữ Đình Toản được đổi tên thành Công Toản, và được ban cho bài thơ quốc âm:
“Bấy lâu gang tấc chốn phong thần
Lục dã phen này đượm thức xuân.
Hoa quốc mấy tài thêu vẻ gấm
Lập triều đòi thuở nhắc đồng cân.
Máy sâu xướng tỏ về tri túc,
Gánh nặng còn dành sức trí thân.
Ưu ái niềm xưa tua nghĩa đấy,
Bên tai chi lãng tiếng thiều quân”.
Từ Tiến sĩ xuất thân, Nhữ Đình Toản trải nắm nhiều chức vụ trọng yếu cả bên hoàng triều và vương phủ, lên đến cực phẩm cả ban văn ban võ, được quyến cố trọng dụng, ở ngôi tể phụ hơn mười năm, đương thời khen là bậc danh thần./.
Bài và ảnh: Minh Thuý
Nguyễn Cao tên đầy đủ là Nguyễn Thế Cao, hiệu là Trác Phong còn gọi là Nguyễn Cách Pha, sinh năm Đinh Dậu (1837), trong một gia đình và dòng họ có truyền thống hiếu học và khoa bảng ở làng Cách Bi, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Theo gia phả của dòng họ Nguyễn thì cụ tổ dòng họ Nguyễn Thế vốn là một quan chức nhà Lê, quê ở Thanh Hoá, cụ có 6 người con trai đều làm quan cho triều đại này. Nguyễn Cao chính là con cháu của ngành tổ thứ tư của dòng họ.
Cha của Nguyễn Cao tên là Nguyễn Thế Hanh (1810-1840) hiệu Đức Kế, 19 tuổi đỗ tú tài, 22 tuổi đỗ cử nhân khoa Tân Mão, làm quan tri huyện. Mẹ là Nguyễn Thị Điềm, thuộc dòng họ Nguyễn Đức, một dòng họ quan võ lớn và danh giá ở Quế Ổ. Bà là người xinh đẹp và đức hạnh. Sau khi chồng mất, một lần bị bọn lính chòng ghẹo, bà lấy thế làm nhục, nghĩ mình thất tiết với chồng, bèn tự tử.
Nguyễn Cao mồ côi cha mẹ từ lúc lên ba, ở với bà ngoại, năm lên mười bà ngoại cũng mất, Nguyễn Cao sớm có chí tự lực và học tập siêng năng. Ông được sự dạy bảo của 2 vị thày lớn thời đó là Phó bảng Nguyễn Phẩm và Hoàng giáp Nguyễn Văn Nghị. Hai thày không chỉ truyền cho Nguyễn Cao những kiến thức Nho học mà còn bồi dưỡng cho ông tinh thần yêu nước thương dân, kiên trung bất khuất.
Nguyễn Cao vừa thông minh, vừa ham học lại chăm chỉ. Ông thi đậu giải nguyên khoa thi hương năm Đinh Mão (1867) tại trường thi Hà Nội. Từ đó mọi người gọi ông với một niềm kính phục là thủ khoa Cao. Thi đậu Nguyễn Cao không ra làm quan ngay, mà xin về quê mở trường dạy học.
Trong cuộc xâm lược Bắc kì lần thứ nhất, tháng 11 năm 1873, giặc Pháp từ Hà Nội tràn sang chiếm đóng Gia Lâm, Siêu Loại, Nguyễn Cao đã lãnh đạo nhân dân Bắc Ninh đứng lên đánh Pháp, tiêu diệt nhiều tên địch, giải phóng một vùng rộng lớn. Khi triều đình nhà Nguyễn ký hoà ước với Pháp, ông cáo bệnh về quê.
Lúc này, bọn phỉ Tầu tràn sang các tỉnh phía Bắc và các huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang. Chúng cướp phá, giết chóc rất thảm khốc. Nguyễn Cao đã tham gia tổ chức các cuộc dẹp bọn phỉ Tầu. Kế đó, ông được triều đình bổ nhiệm chức tri huyện Yên Dũng, rồi tri phủ Lạng Giang. Tiếp đó ông xin triều đình cho đi khai khẩn đồn điền ở Nhã Nam, Phú Bình để mưu lợi cho dân.
Năm 1882, thực dân Pháp đánh Bắc Kì lần thứ 2, ngay lúc đó Nguyễn Cao đã kêu gọi dân chúng tập hợp lực lượng nghĩa binh đứng dạy chống Pháp. Trong trận tấn công lớn ở Gia Lâm, Nguyễn Cao bị thương nặng, nhưng vẫn giữ vững vị trí của người chỉ huy, nêu tấm gương chiến đấu dũng cảm và quên mình cho các nghĩa sĩ noi theo. Vua nhà Nguyễn ban cho ông 20 lạng bạc để trị thương. Lành vết thương, Nguyễn Cao lại tiếp tục chỉ huy cuộc chiến đấu chống Pháp, tổ chức nhiều trận đánh ở Phả Lại, Yên Dũng, Quế Dương, Võ Giàng, Từ Sơn, Thuận Thành, rồi sang cả Ứng Hoà-Hà Tây.
Ngày 27-3-1887, tại một trận đánh ở Kim Giang (nay thuộc Ứng Hoà TP Hà Nội), ông đã bị thực dân Pháp bắt. Bọn giặc cướp nước đã tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc, song bị Nguyễn Cao cự tuyệt. Với khí tiết của một sĩ phu yêu nước, ông đã rạch bụng tự sát để giữ tròn khí tiết.
Nguyễn Cao, đã cống hiến cuộc đời và sự nghiệp trọn vẹn cho công cuộc kinh bang đất nước, đào tạo nhân tài, đánh đuổi thực dân Pháp. Tên tuổi của ông đã đi vào sử sách và được đánh giá là sĩ phu yêu nước, một lãnh tụ của phong trào khởi nghĩa chống Pháp, một nhà giáo mẫu mực, nhà thơ lớn.
Nguyễn Cao thực sự là một danh nhân lịch sử-văn hoá của dân tộc và của quê hương Bắc Ninh-Kinh Bắc. Tên ông đã được chọn đặt cho tên đường phố ở Thủ đô Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, TP Bắc Ninh, TP Bắc Giang và tên trường trung học cơ sở chuyên Quế Võ (trường THCS Nguyễn Cao). Ở Hà Nội có miếu Trung Liệt thờ Nguyễn Cao và nhiều nơi mà ông đến khai hoang, đánh giặc, dạy học nhân dân đều lập đền thờ. Đền Nguyễn Cao ở Cách Bi (Quế Võ) được Nhà nước xếp hạng Di tích lưu niệm danh nhân lịch sử-văn hóa cấp Quốc gia.
Trần Thùy Linh
HOÀNG GIÁP NGUYỄN DUY HIỂU
Hoàng giáp Nguyễn Duy Hiểu là con trưởng của Hoàng giáp Thái Tể Tuyền Quận công Nguyễn Duy Thì.
Ông đỗ Hoàng giáp năm 1628, tên của ông được khắc trên Bia Tiến sĩ khoa Vĩnh Tộ 10 (1628) đặt tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội như sau: “Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân: Nguyễn Duy Hiểu: xã Yên Lãng huyện Yên Lãng”. Hoàng giáp Nguyễn Duy Hiểu cũng như các vị Tiến sĩ đỗ đồng khoa được lưu danh trên bia đá đều là những bậc trung thần hết lòng vì nước, vì dân.
Sau khi thi đỗ Hoàng giáp, Nguyễn Duy Hiểu theo thể lệ được bổ chức Hàn lâm viện Hiệu lý, chánh thất phẩm, hàm Tu thận doãn. Chỉ mấy tháng sau, ông được thăng tước Nghĩa Phú tử. Đến tháng 11 năm 1629, Nguyễn Duy Hiểu được thăng chức Lại khoa Cấp sự trung.
Cuối năm Đức Long 2 (1631), theo lệ quy định con cháu đại thần được hưởng tập ấm, Lại khoa Cấp sự trung Nguyễn Duy Hiểu là con trưởng của Công bộ Thượng thư kiêm Quốc Tử Giám Tư nghiệp Tuyền Quận công Nguyễn Duy Thì được gia phong là Triều liệt Đại phu, Trung giai. Chưa đầy 2 năm, ông được thăng chức Lại khoa Đô Cấp sự trung. Hơn nửa năm sau, ông được thăng chức Ngự sử đài Thiêm Đô Ngự sử.
Ảnh: Bia khoa thi Vĩnh Tộ 10 (1628) đặt tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội
Năm Dương Hoà 3 (1637), Nguyễn Duy Hiểu đi sứ nhà Minh cùng Giang Văn Minh và 4 vị Phó sứ là Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình, Thân Khuê. Trong chuyến đi sứ này, cái chết của sứ thần Giang Văn Minh được ghi chép rất kỹ trong Đại Nam nhất thống chí. Song không thấy ghi chép về cái chết của Nguyễn Duy Hiểu. Tuy nhiên, hiện nay dòng họ vẫn lưu giữ được tấm sắc phong của vua Lê Thần Tông ghi nhận công lao đi sứ của ông. Nội dung sắc phong như sau:
“Sắc cho: Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Ngự sử đài, Thiêm Đô Ngự sử, Nghĩa Phú tử, Tá trị Thượng khanh trung giai Nguyễn Duy Hiểu vì việc đi sứ Bắc quốc nạp cống, hoàn thành việc nước, có công, mất khi đang tại chức… Các triều thần bàn định nên gia tặng chức Hình bộ Tả Thị lang, tước hầu và ban tên thụy. Nay xét gia tặng chức Hình bộ Tả Thị lang, tước Nghĩa Phú hầu, thụy Văn Định. Vậy ban sắc này.
Dương Hòa thứ 6, ngày 23, tháng Giêng nhuận.”
Tờ sắc phong có quốc ấn “Hoàng đế chi bảo”, đồng thời còn ghi rõ: “…vì việc đi sứ Bắc quốc nạp cống, hoàn thành việc nước, có công, mất khi đang tại chức…” cho thấy vua Lê Thần Tông và triều đình thời chúa Trịnh Tráng đánh giá rất cao công lao đi sứ của Hoàng giáp Chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu. Trong Lịch triều đăng khoa lục chép về Nguyễn Duy Hiểu như sau: “Phụng sứ, đạo tốt” (vâng mệnh đi sứ, chết trên đường). Như vậy, ta có thể thấy Nguyễn Duy Hiểu là một nhà ngoại giao tài ba có công lao lớn với đất nước.
Hoàng giáp Nguyễn Duy Hiểu là người rất tận trung với nước, có ích với dân, đạo nghĩa ngay thẳng, công đức vẻ vang. Ông còn là một nhà ngoại giao tài ba có công với nước. Với những đóng góp của mình, Hoàng giáp Nguyễn Duy Hiểu xứng đáng được cả dân tộc ghi nhớ mãi./.
Sưu tầm
TIẾN SĨ, QUẬN CÔNG NGUYỄN CÔNG CƠ
Nguyễn Công Cơ tự là Nghĩa Trai, là một trong những danh nhân văn hóa tiêu biểu của Từ Liêm xưa. Ông sinh năm 1676 tại làng Xuân Tảo (nay thuộc phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội).
Năm 22 tuổi, Nguyễn Công Cơ thi đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Sửu niên hiệu Chính Hòa 18 (1697) đời vua Lê Hy Tông. Hiện nay tên tuổi, quê quán của ông còn được khắc trên bia Tiến sĩ đặt tại di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội.
Sau khi thi đỗ Tiến sĩ, Nguyễn Công Cơ được triều đình bổ nhiệm giữ chức Hiệu thảo trong Hàn lâm viện. Tháng 3, năm Giáp Thân, niên hiệu Chính Hòa thứ 25 (1704), Trịnh Luân, Trịnh Phất, Đào Quang Nhai mưu làm phản, đều bị giết lúc này Hiệu thảo Nguyễn Công Cơ dò xét được tình trạng, bèn tâu lên. Chúa giao xuống cho quan lại trừng trị, bọn chúng đều bị khép vào pháp luật. Tiến sĩ Nguyễn Công Cơ được cất nhắc làm Hữu Thị lang Bộ Công.
Tháng Giêng, mùa xuân năm Ất Mùi, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715), Tả Thị lang Bộ Hộ Nguyễn Công Cơ được cử làm Chánh sứ, đứng đầu đoàn ngoại giao của nước Đại Việt đi tuế cống nhà Thanh. Một năm sau, đoàn đi sứ trở về, “phụng chỉ dụ của vua nhà Thanh nói: Phẩm vật tuế cống, lư hương và bình hoa bằng bang, chậu bằng bạc, từ sau được theo số lượng đã định mà thay thế làm thành vàng đĩnh, bạc đĩnh rồi giao quan chức tỉnh Quảng Tây thu nhận lưu trữ, còn ngà voi và tê giác đều được miễn, người tùy hành cũng liệu lượng giảm bớt”. Chính vì thành công của đợt đi sứ này mà ông được triều đình thăng làm Thượng thư Bộ Binh. Đến năm Canh Tý niên hiệu Bảo Thái thứ nhất (1720), tháng 4, mùa hạ, triều đình tổ chức khảo xét công trạng 10 năm của tất cả quan lại, lúc bấy giờ, Nguyễn Công Cơ đang là quan văn được dự hạng thượng khảo, kết quả ông đứng bậc nhất, được ban tước Cảo Quận công. Cũng trong năm này, khi 46 tuổi, ông được bổ nhiệm làm Tham tụng trong phủ Chúa.
Là một vị quan cương trực, khi phát hiện những sai lầm trong việc tổ chức thi Hương tại lầu Ngũ Long, Tiến sĩ Nguyễn Công Cơ đã tâu lên chúa Trịnh. Chúa Trịnh bèn ra lệnh thi lại. Xét công trạng của ông, chúa Trịnh đã gia thăng Nguyễn Công Cơ làm Thiếu bảo. Tháng 5 năm 1727, Thiếu bảo Nguyễn Công Cơ chuyển sang võ giai, giữ chức Thự phủ sự. Tháng 11 năm 1733, Thiếu bảo Nguyễn Công Cơ mất, triều đình gia tặng Thái phó.
Bên cạnh sự nghiệp chính trị, Tiến sĩ, Quận công Nguyễn Công Cơ còn để lại cho đời một số trước tác như Vũ học tùng ký và 9 bài thơ chữ Hán chép trong Toàn Việt thi lục.
Nhà thờ Tiến sĩ, Quận công Nguyễn Công Cơ (hay còn gọi là Nhà thờ cụ Thượng Cáo) toạ lạc tại làng Xuân Tảo (quận Bắc Từ Liêm). Đất nhà thờ trước kia vốn là kho muối của triều đình, sau khi Tiến sĩ, Quận công Nguyễn Công Cơ mất, triều đình vua Lê ban cho dòng họ khu đất này làm nơi hương khói, phụng thờ tưởng nhớ đến vị quan thanh liêm Nguyễn Công Cơ.
Ảnh: Cổng nhà thờ Tiến sĩ, Quận công Nguyễn Công Cơ
Nhà thờ có niên đại cách đây khoảng 300 năm. Đến năm 2008, nhà thờ được chính quyền và dòng họ tiến hành trùng tu lớn. Hiện tại, Nhà thờ Quận công Nguyễn Công Cơ gồm các hạng mục công trình kiến trúc: cổng, nhà thờ. Cổng được xây dựng giản đơn, gồm 2 tầng tám mái, lợp ngói mũi hài. Từ cổng qua sân được lát gạch Bát Tràng, bước lên bậc tam cấp là đến nhà thờ.
Ảnh: Nhà thờ Tiến sĩ, Quận công Nguyễn Công Cơ
Nhà thờ là nếp nhà ba gian, xây dựng theo kiểu đầu hồi bít đốc, tay ngai, kiến trúc chữ Đinh, lợp ngói ri. Bên trong nhà thờ được chia làm 3 không gian thờ tự, trong đó, quan trọng nhất là gian giữa được dòng họ đặt hương án thờ Quận công Nguyễn Công Cơ và song loan vua ban. Một số hoành phi như Phụ quốc hộ dân, Quốc thế thần được treo ở nhà thờ nhằm ca ngợi công lao, đóng góp của Quận công Nguyễn Công Cơ đối với dân chúng, triều đình. Hai gian còn lại trong nhà thờ là nơi treo bằng công nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa năm 1993 và tấm bảng ghi chép về thân thế, sự nghiệp của Quận công Nguyễn Công Cơ.
Ảnh: Gian thờ Tiến sĩ, Quận công Nguyễn Công Cơ
Có thể nói, cuộc đời và sự nghiệp quan trường của Quận công Nguyễn Công Cơ đã được ghi chép qua một số tư liệu chính sử như Đại Việt sử ký tục biên, Khâm định Việt sử thông giám Cương mục, Đăng khoa lục… Tựu chung lại, ông là vị quan được chúa Trịnh nhận xét là người thẳng thắn, sáng suốt, nói năng quả cảm. Chính sự thẳng thắn đó mà không ít lần Nguyễn Công Cơ bị các quan lại khác ghen ghét. Nhưng điều đó không làm ảnh hưởng đến sự tận tâm phục vụ triều đình của Nguyễn Công Cơ. Bởi thế, khi mất, “tuy là quan sang nhưng ông không lập cơ nghiệp, nên được tiếng là thanh bần”, được triều đình ban tước phong và ban cho kho muối để con cháu làm nơi hương khói tưởng nhớ đến vị quan thanh liêm này. Tiến sĩ Nguyễn Công Cơ cũng là người mở đầu cho truyền thống khoa bảng của dòng họ Nguyễn ở làng Cáo.
Hàng năm, cứ đến ngày 23 tháng 10 âm lịch, dòng họ Nguyễn Công lại tổ chức lễ giỗ và dâng hương tưởng nhớ Cảo Quận công./.
Bài và ảnh: Thu Hằng
TIẾN SĨ TRẦN CÔNG XÁN (1731-1787)
Trần Công Xán (hay còn gọi là Trần Công Thước), là người thôn Trung, xã An Vĩ, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Ông thi đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời Lê Hiển Tông khi 42 tuổi. Trong sự nghiệp làm quan của mình, Tiến sĩ Trần Công Xán từng trải qua các chức vụ quan trọng trong bộ máy triều đình như Bồi tụng (1784), Đồng Bình chương sự (1787). Năm 1787, Trần Công Xán cùng với phái đoàn của triều Lê Trung hưng đi sứ Nhà Tây Sơn yêu cầu trả lại đất Nghệ An. Tuy nhiên, việc không hoàn thành, cả phái đoàn đi sứ bị giam, sau được thả về và bị đắm thuyền chết.
Theo các cụ cao niên trong làng cho biết, sau khi vinh quy bái tổ, Tiến sĩ Trần Công Xán cùng các vị chức sắc địa phương lập nên Văn chỉ thôn Trung (xã An Vĩ) là nơi thờ các Tiên Thánh, đồng thời khuyến khích con cháu về đạo lý uống nước nhớ nguồn, tôn trọng sự học. Hiện nay, sự tích về Tiến sĩ Trần Công Xán được lưu giữ trong hai cuốn sách chữ Hán tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, có tiêu đề: Tiến sĩ Trần Công Xán sự trạng (ký hiệu A.2136) và cuốn Hưng Yên tỉnh Khoái Châu phủ Đông An huyện Kim Động huyện Phù Cừ huyện các xã thần tích (ký kiệu AE.a3/5).
Ảnh: Nhà thờ Tiến sĩ Trần Công Xán
Nhà thờ Tiến sĩ Trần Công Xán được xây theo kết cấu chữ Nhị, gồm Tiền tế, Hậu cung. Tiền tế là nếp nhà 5 gian, được dựng vào ngày 12 tháng 3 năm Đinh Sửu (tức ngày 18 tháng 4 năm 1997). Tiền tế và Hậu cung cách nhau một khoảng sân nhỏ. Hậu cung là nếp nhà 3 gian, được lợp ngói mũi hài, trùng tu năm 2008.
Ảnh: Khám thờ Tiến sĩ Trần Công Xán
Gian chính giữa Hậu cung đặt khám thờ, bên trong đặt bài vị thờ Tiến sĩ Trần Công Xán, hai gian tả hữu thờ Quan Trần Triều. Hiện nhà thờ còn lưu giữ được một số di vật như: bài vịnh về Tiến sĩ Trần Công Xán được viết bằng chữ Hán dưới triều vua Tự Đức, hoành phi, câu đối ca ngợi Tiến sĩ Trần Công Xán. Đặc biệt nhà thờ còn có 1 bản sắc phong thời Nguyễn (18/11/1889) phong Tiến sĩ Trần Công Xán với nội dung: “Sắc ban cho xã An Vĩ, huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên vốn thờ Tiến sĩ Bình chương sự Trần phủ quân tôn thần. Trong việc giúp nước che chở cho dân, thần vô cùng linh ứng, nhưng từ trước tới nay chưa từng được ban sắc tặng phong. Nay trẫm kế nối mệnh lớn, nghĩ đến công lao tốt đẹp của thần, nên ban cho thần là Quang ỷ Dực bảo Trung hưng Trung đẳng thần. Lại đặc chuẩn cho (dân xã) thờ thần như cũ, mong thần hãy phù hộ che chở cho dân của ta. Kính cẩn thay! Ngày 18 tháng 11 năm Thành Thái năm thứ nhất (1889)”.
Họ tên, quê quán của Tiến sĩ Trần Công Xán được khắc tên trên bia Tiến sĩ khoa thi năm 1772 tại Di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) và trên bia Tiến sĩ tại Văn Miếu Xích Đằng (tỉnh Hưng Yên).
Bài và ảnh: Hoa Ngân
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM NGUYỄN BÁ LÂN (1700 - 1785)
Nguyễn Bá Lân sinh năm Canh Thìn (1700) trong một gia đình có truyền thống hiếu học tại làng Cổ Đô (xã Cổ Đô, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội). Ông không chỉ là một tác gia lớn của nền văn học trung đại, mà ông còn là một nhà giáo có nhiều đóng góp cho sự nghiệp đào tạo giáo dục đào tạo nhân tài của đất nước.
Làng Cổ Đô yên bình nằm bên dòng sông Đà cuộn sóng. Tạo hóa đã ban cho mảnh đất này nhiều sự “hữu duyên” nên đã có nhiều truyền thuyết ra đời từ nơi đây. Đất Cổ Đô còn nổi tiếng là đất văn học nên người dân luôn tự hào về truyền thống hiếu học, khoa bảng của làng.
Cha của Nguyễn Bá Lân là Nguyễn Công Hoàn vô cùng nổi tiếng về thơ văn thời bấy giờ. Nguyễn Công Hoàn hiệu là Mai Hiên, tên chữ là Hạo Nhiên, là người có tài văn học xuất chúng, nổi tiếng gần xa. Người ta ca tụng ông là một trong “Tràng An tứ hổ” gồm: nhất Quỳnh, nhị Nham, tam Hoàn, tứ Tuấn. Nguyễn Công Hoàn nức tiếng văn chương nhưng con đường khoa cử của ông lại không may mắn. Ông thường đi dạy học khắp nơi, đến khi Nguyễn Bá Lân 15 tuổi, ông về trực tiếp dạy dỗ con trai của mình. Nguyễn Bá Lân đã lĩnh hội được những tinh túy chắt lọc trong kiến thức mà cha truyền thụ, ông sớm nổi tiếng văn hay, chữ tốt so với chúng bạn cùng thời. Năm 31 tuổi ông đỗ đầu kỳ thi Hội, vào thi Đình, Bá Lân đỗ đầu hàng Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731).
Sau khi thi đỗ có nhiều điều kiện để thi thố tài năng, quan lộ của Nguyễn Bá Lân bắt đầu rộng mở. Năm 1737 khi đang là Đốc đồng trấn Sơn Nam, chúa tin cậy giao cho ông làm Giám quân, ông đã lập được công to, nên nhà chúa giao ông giữ chức Bồi tụng. Năm 1744, Bá Lân được bổ làm Lưu thủ Hưng Hóa, sau đó làm Đốc trấn Cao Bằng. Với tấm lòng yêu dân, trách nhiệm với biên cương của đất nước, ông hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, được dân chúng tin yêu, kính trọng. Vì vậy, năm 1756, ông được triều đình vời về Kinh thăng làm Thiêm Đô Ngự sử kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám, đồng thời giữ chức Bồi tụng trong phủ chúa. Nguyễn Bá Lân cùng một lúc làm việc trong cung vua, phủ chúa và phụ trách Quốc Tử Giám đủ thấy ông là người có khả năng lãnh đạo và tầm quản lý vĩ mô. Đây là giai đoạn quan trọng, thăng hoa nhất của Nguyễn Bá Lân, cũng là thời kỳ ông có nhiều đóng góp nhất cho văn hóa, giáo dục của nước nhà.
Quốc Tử Giám có vai trò là trung tâm đào tạo, giáo dục nhân tài cho quốc gia nên Tế tửu thường do các bậc đại thần đạo cao, đức trọng phụ trách. Tế tửu vừa trông coi việc tế lễ vào dịp xuân thu nhị kỳ, vừa quản lĩnh việc dạy và học trong nhà Giám. Một nhiệm vụ quan trọng khác của người đứng đầu Quốc Tử Giám là xem xét, đánh giá chính xác tài, đức của Giám sinh tiến cử lên triều đình, nhằm tuyển chọn được những nhân tài xứng đáng cho đất nước. Trong thời gian Nguyễn Bá Lân làm Tế tửu Quốc Tử Giám, ông rất sát sao với việc học tập của Giám sinh, luôn công tâm, chính trực trong quá trình đánh giá học trò. Do vậy học trò trường Giám đã có nhiều người đỗ đại khoa có phần nhiều công sức dạy dỗ, giám sát của Nguyễn Bá Lân trong thời gian ông giữ Tế tửu Quốc Tử Giám như các Giám sinh: Phạm Nguyễn Đạt đỗ Hội nguyên, Phan Khiêm Thụ và Phan Lê Phiên, đỗ Tiến sĩ khoa thi năm 1757.
Năm 1770, Nguyễn Bá Lân xin về trí sĩ, chúa Trịnh ưng cho nhưng vẫn lưu giữ ông ở gần kinh thành để khi có việc có thể gặp ông tham khảo ý kiến. Năm 1772, Nguyễn Bá Lân được triều đình khởi phục, bổ giữ chức Thượng thư Bộ Lễ - chức quan đứng đầu, chịu trách nhiệm tổ chức và kiểm soát việc học hành thi cử, chọn nhân tài cho đất nước và các vấn đề lễ nghi triều chính.
Năm 1786, Nguyễn Bá Lân mất, được triều đình truy tặng hàm Thái tể, tước Quận công, thọ 86 tuổi. Hơn 50 năm làm quan, trải qua nhiều trọng trách trong cung vua, phủ chúa ở cả văn và võ, Nguyễn Bá Lân không chỉ là một trí thức có kiến thức uyên bác, làm việc cẩn trọng mà còn là người thanh liêm, chính trực hết lòng vì dân vì nước. Dù ông làm việc ở đâu cũng luôn tận tâm, tận lực với công việc, nên ông được vua yêu, chúa mến. Các sử gia đều đánh giá cao về ông, khen ông là người có văn học, thẳng thắn, trung thực, là một bề tôi danh vọng.
Không chỉ là một danh thần, một nhà giáo, Nguyễn Bá Lân còn là một tác gia lớn trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XVIII. Bài phú Nôm Ngã ba Hạc phú với lời văn điêu luyện, phép tắc nhuần nhuyễn, câu chữ và ý tứ độc đáo, gợi cho người đọc như đang thưởng ngoạn thiên nhiên vũ trụ đầy tươi vui và sống động là một bài phú tiêu biểu cho phú Việt Nam, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các tác gia viết phú sau này. Ngoài ra, Nguyễn Bá Lân còn có nhiều bài phú và thơ vịnh bằng chữ Hán như Giai cảnh hứng tình, Dịch đình hương xa, Trương Hàn tư thuần lư… Thơ và Phú của ông đã góp phần đưa tên tuổi ông thành một tác gia tiêu biểu của làng phú, của văn học Việt Nam.
Nguyễn Bá Lân là một danh Nho, danh thần, một nhân cách lớn, xứng đáng là một tấm gương sáng cho hậu thế noi theo./.
Ths. Nguyễn Thị Mai
Phòng Nghiên cứu - Sưu tầm Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám
NHỮNG TƯ LIỆU LỊCH SỬ GHI CHÉP VỀ
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM VŨ MIÊN
Vũ Miên (1718-1782) làm quan dưới triều vua Lê Hiển Tông vào nửa cuối thế kỷ XVIII. Ông được sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng ở xã Xuân Lan, huyện Lang Tài, nay thuộc thôn Ngọc Quan, xã Lâm Thao, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Ông làm quan đến chức Thượng thư vì thế có nhiều tư liệu cổ ghi chép về ông.
Ảnh: Tượng thờ Vũ Miên tại nhà thờ
Quê quán Vũ Miên được ghi chép thống nhất trong các sách như: Khâm định việt sử thông giám cương mục, Việt sử cương mục tiết yếu và trên bia Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng 9 (1748) đặt tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội đều ghi ông là người xã Xuân Quan, huyện Lang Tài.
Tiểu sử của Vũ Miên được ghi chép chi tiết trên thác bản bia thần đạo khắc dựng năm Cảnh Hưng thứ 43 (1782). Bia thần đạo tóm tắt tiểu sử Liên Khê hầu Vũ Miên như sau: Vũ Miên sinh năm 1718, tên húy là Trọng, tiểu tự Hy Nghi. Ông nội là Vũ Bá Xuân được tặng Triệu Phái bá, bà nội là Nguyễn Thị Bái, được tặng Tự phu nhân. Cha làm Huấn đạo, tên Vũ Khuê, được phong tặng Công bộ Hữu thị lang Lan Khê hầu. Mẹ là Đỗ Thị Đễ được phong tặng Chánh phu nhân. Bản thân ông năm 15 tuổi học ở trường huyện, 18 tuổi vào học trong Quốc Tử Giám, 31 tuổi thi Hội đỗ Hội nguyên, văn phú, sách đều giỏi loại nhất. Làm quan Đốc đồng xứ Kinh Bắc, trải giữ các chức Tri Lễ phiên, Bồi tụng, Tham tụng, kiêm hành Ngự sử đài, Binh bộ, Lại bộ. Phu nhân là Vũ Thị Mát. Con trưởng của ông là Phó Hiến sát sứ Vũ Thiều, cháu đích tôn là Tri phủ Vũ Trinh.
Ảnh: Nhà thờ Vũ Miên
Ông đỗ Tiến sĩ năm Mậu Thìn (1748), việc đỗ đạt của ông được ghi chép nhiều trong các sách: Đại Việt sử ký tục biên, Việt sử cương mục tiết yếu, Lịch triều hiến chương loại chí, và được khắc trên bia Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng 9 (1748) đặt tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội; được khắc trên bia Kim bảng lưu phương (từ khoa Tân Hợi – 1731 đến khoa Đinh Mùi – 1787) đặt tại Văn miếu Bắc Ninh; được khắc trên bia Tục lập đề danh bi có niên đại vào năm Cảnh Hưng thứ 43 (1782). Trên chuông lớn Bích Ung đặt tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội cũng có đề cập đến năm ông đỗ Tiến sĩ là năm 1748.
Sau khi Vũ Miên đỗ đạt, ông liên tục làm quan dưới triều Lê - Trịnh, lần lượt qua nhiều chức quan từ nhỏ tới lớn. Các chức quan của ông được chép trong Đại Việt sử ký tục biên và Khâm định Việt sử thông giám cương mục: Trong thời gian từ 1761 đến 1778 ông là kinh qua các chức: Giản quan năm 1761, Bồi tụng và Tế tửu Quốc Tử Giám năm 1767, Thự thiêm đô ngự sử năm 1768, Phó Đô ngự sử năm 1774, Hữu thị lang bộ Hình, Hữu thị lang bộ Binh năm 1777, Hành tham tụng năm 1778, khi mất (1782) ông được phong tặng hàm Thượng thư, thụy Ôn Cẩn.
Khi làm Tổng tài Quốc sử quán, ông được giao chủ trì biên soạn Quốc sử tục biên. Bộ sách này chép sự việc từ niên hiệu Vĩnh Trị (1676) đời Lê Hy Tông đến niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1739) đời Lê Ý Tông, gồm 6 quyển. Hoàn thành bộ quốc sử, Vũ Miên lại cùng Nguyễn Hoản, Uông Sĩ Lãng, Phan Trọng Phiên biên soạn sách Đại Việt lịch triều đăng khoa lục vào năm 1779. Sách chép danh sách đỗ đạt Trạng nguyên, Tiến sĩ từ năm 1075 đến năm 1787.
Vào năm 1761 Vũ Miên làm tán lý quân vụ Hưng Hóa. Lúc ấy quan quân đạo Hưng Hóa vây giặc Thành đã lâu, quân sĩ nhiều người bị nhiễm chướng dịch. Tháng 9, giặc Thành nhân cơ hội nước lên to, phá vây chạy, quan quân đuổi theo bắt được, giải về kinh sư, giết giặc Thành cùng đồ đảng, Hưng Hóa được yên. Nhờ lập được công lớn nên tới năm Giáp Ngọ - Cảnh Hưng thứ 35 (1774),“Chúa cho Bồi tụng Vũ Miên làm Phó Đô ngự sử”. Vũ Miên cũng có đóng góp trong việc dẹp giặc Lê Duy Mật. Khởi nghĩa Lê Duy Mật diễn ra suốt 30 năm với quy mô rất rộng lớn. Vũ Miên tham gia vào việc bàn công việc tiến đánh hợp ý Chúa. Nhờ vậy dẹp tan được giặc Lê Duy Mật.
Các sách Đại Việt sử ký tục biên, Việt sử cương mục tiết yếu đều khi Vũ Miên mất năm 1782 vì bệnh nặng.
Vũ Miên giữ chức Tổng tài quốc sử quán nên ông có rất nhiều các tác phẩm bằng cả chữ Hán và chữ Nôm như: Lê triều Vũ Liên Khê công Bắc sứ tự thuật kí, Đại Việt lịch triều đăng khoa lục. Ngoài ra ông còn có một số bài thơ văn được chép rải rác trong các tác phẩm: Quốc âm thi, Hồng ngư trú tú lục, Cẩm tuyền vinh lục, Lịch đại quần anh thi văn tập, Việt thi tục biên, Đạo giáo nguyên lưu.
Qua những tóm lược tư liệu cổ ta có thể thấy Vũ Miên là người luôn tận hiếu tận trung, cống hiến hết mình vì xã tắc. Từ khi bước vào chốn quan trường, ông luôn tận lực làm hết trách nhiệm của mình. Có thể nói Vũ Miên là người văn võ song toàn, có sự nghiệp chính trị và quân sự vẻ vang, ông có nhiều đóng góp trong việc chính sự cũng như góp phần làm ổn định tình hình biên giới của đất nước.
Bài và ảnh: Minh Lan
ĐẠI TƯ ĐỒ XUÂN QUẬN CÔNG NGUYỄN NGHIỄM (1708-1775)
Nguyễn Nghiễm tự Hy Tư, tiểu huý Thiều, hiệu Nghị Hiên, biệt hiệu là Hồng Ngư cư sĩ, người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là một danh sĩ “danh cao đức trọng” không chỉ được triều đình sủng ái có cuộc sống vinh hoa bậc nhất chốn kinh kỳ mà các sĩ nhân ngày ấy ngưỡng vọng ông như sao Khuê, sao Đẩu.
Gia đình của Nguyễn Nghiễm có nhiều đóng góp cho truyền thống khoa bảng của mảnh đất Nghi Xuân. Từ đời cha ông là Nguyễn Quỳnh làm Chánh đội trưởng, gia đình có điều kiện nên anh em Nguyễn Nghiễm được theo đuổi sự nghiệp bút nghiên. Em trai ông là Nguyễn Huệ đỗ Tiến sĩ khoa Quý Sửu (1733). Hổ phụ sinh hổ tử, các con ông tiếp nối truyền thống thi thư của gia đình làm rạng danh thêm cho dòng họ: Nguyễn Khản đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn năm 1760, giữ nhiều trọng trách trong triều đình. Nguyễn Đề (Nễ) thi Hội trúng Tam trường làm quan đến chức Đông các Đại học sĩ, hai lần đi sứ nhà Thanh. Nguyễn Du là nhà thơ kiệt xuất, được tôn vinh là Danh nhân văn hóa thế giới nổi tiếng cả trong và ngoài nước với tác phẩm Truyện Kiều.
Bức hoành phi "Cổ Kim nhật nguyệt"
Ngay từ khi còn nhỏ Nguyễn Nghiễm đã là người thông minh hiếu học, các lần khảo thí ở huyện ở phủ ông đều đỗ đầu. Sau khi đỗ thi Hương năm 1723, theo đúng lệ, Nguyễn Nghiễm được vào học Quốc Tử Giám (1724). Các bài văn thi tứ trọng của ông đa số có điểm tối ưu, sau đó được yết bảng treo ngoài cửa Thái học. Danh tiếng Nguyễn Nghiễm vang khắp chốn kinh thành. Năm 24 tuổi, Nguyễn Nghiễm thi Hội xếp thứ 8, thi Đình được ban đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (tức Hoàng giáp) khoa Tân Hợi Vĩnh Thịnh 3 (1731). Vì ông là người trẻ tuổi nhất khoa thi năm đó nên còn được gọi là “thiếu tuấn”.
Sau khi thi đỗ, lúc đầu Nguyễn Nghiễm giữ chức quan văn tại triều, sau đó cải bổ chức quan Tham nhung hiệp đồng tán lý; Hiến sát sứ xứ Thanh Hoa (1737); Tham chính xứ Sơn Nam (năm 1741). Năm 1743, ông được thăng Hàn lâm viện Thừa chỉ, phong tước Xuân Lĩnh bá; năm 1746 thăng chức Hữu tham tri Bộ Công. Năm 1748 ông giữ chức Nghệ An Tuyên phủ sứ kiêm Tán lý quân vụ. Năm 1753, thăng Đô Ngự sử, kiêm giữ Đốc trấn Thanh Hoa. Năm 1754, ông về triều làm Tả giám thí khoa thi Hội; năm 1757 thăng làm Tả Thị lang Bộ Hình; năm 1759 làm Tả Thị lang Bộ Lễ. Năm 1761, triều đình tín nhiệm thăng tiếp ông giữ chức Thượng thư Bộ Công, Nhập thị Bồi tụng, Tế tửu Quốc Tử Giám. Năm 1770, ông được phong làm Thái tể. Năm 1771, Nguyễn Nghiễm xin về trí sĩ khi đã 64 tuổi. Đến năm 1772, ông lại được chúa Trịnh Sâm triệu về kinh giao chức Thượng thư Bộ Hộ. Năm 1774, ông lãnh chức Tả tướng quân, Tham tán quân cơ dinh Trung tiệp ở đạo Thuận Hóa. Ông mất ngày 17 tháng 11 năm Ất Tỵ (09/12/1775) tại quê nhà, hưởng thọ 68 tuổi.
Chuông Bích Ung
Trong thời kỳ là người đứng đầu Quốc Tử Giám Thăng Long, Nguyễn Nghiễm cho làm bức hoành phi đề 4 chữ Hán “Cổ kim nhật nguyệt” và 4 chiếc chuông nhỏ, 1 quả chuông lớn là “Bích Ung chung”, rất tiếc 4 chiếc chuông nhỏ không còn, hiện chỉ còn lại chuông Bích Ung treo tại Bái Đường của di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội. Chiếc chuông quý này vẫn được thỉnh lên mỗi khi làm lễ dâng hương các bậc Tiên thánh, Tiên hiền và trong lễ khuyến học cho các cháu học sinh.
Bên cạnh sự nghiệp chính trị, Nguyễn Nghiễm còn là một tác gia nổi tiếng có những tác phẩm có giá trị về nhiều mặt như: Quân trung liên vịnh (Các bài vịnh kế tiếp trong quân); Việt sử bị lãm (xem xét đầy đủ sử nước Việt); Cổ lễ nhạc chương thi văn tập (tập thơ văn và nhạc chương trong lễ tiết đời xưa); Lạng Sơn Đoàn thành đồ (ghi chép bản đồ Đoàn thành ở Lạng Sơn), bài phú Khổng Tử mộng Chu Công và hai bài ký trên bia Tiến sĩ khoa Canh Thìn Cảnh Hưng thứ 21 (1760) và bia Tiến sĩ khoa Bính Tuất Cảnh Hưng thứ 27 (1766).
Đại Tư đồ Xuân quận công Nguyễn Nghiễm là người thông minh mẫn tiệp, có tài thao lược nên được triều đình giao cho nhiều chức vụ trọng yếu. Dù ở bất kỳ cương vị nào, ông cũng luôn đặt vận mệnh của quốc gia dân tộc lên trên hết. Đối với sự nghiệp trồng người, Nguyễn Nghiễm luôn thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc củng cố và phát triển nền học thuật của đất nước. Do vậy ông dồn tâm huyết và tình yêu thương của mình cho các nho sinh trường Giám khi ông làm Tế tửu Quốc Tử Giám. Công lao của bậc đại nho Đại Tư đồ Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm đối với Văn Miếu - Quốc Tử Giám và nền văn hiến của nước nhà vô cùng to lớn./.
Sưu tầm và biên tập: Mai Ngân Anh
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM NGUYỄN TRÍ VỊ (1670-1744)
Nguyễn Trí Vị tự là Hiền Nhu, hiệu Phúc Diên, sinh giờ Mùi ngày 14 tháng 4 năm Canh Tuất (1670) tại làng Sơn Đồng, huyện Đan Phượng, nay là xã Sơn Đồng, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Xã Sơn Đồng là vùng đất có truyền thống hiếu học từ lâu đời, toàn xã có trên 20 dòng họ với 8 vị đỗ Đại khoa, trong đó, dòng họ Nguyễn Trí có hai Tiến sĩ là Nguyễn Trí Cung và Nguyễn Trí Vị.
Cổng nhà thờ Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Trí Vị, xã Sơn Đồng, Hoài Đức, Hà Nội (p.NCST)
Sinh ra trong gia đình vốn có truyền thống đèn, sách nên từ nhỏ, Nguyễn Trí Vị rất chăm chỉ học hành. Ông cùng với người anh họ là Nguyễn Trí Cung thi đua học giỏi và đỗ cao. Mùa xuân năm Quý Mùi, niên hiệu Chính Hòa (1703), Triều đình mở khoa thi, Nguyễn Trí Cung tham dự kỳ thi và đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân, được làm lễ vinh quy bái tổ rất long trọng. Đây là sự kiện khiến ông ngày đêm ra sức dùi mài kinh sử. Năm sau, Nguyễn Trí Vị đi thi Hương và đỗ Tú tài, được cử làm Tri huyện Thiên Bản (thuộc Nam Định ngày nay). Vẫn chưa đạt được mục tiêu, nên ông quyết chí tiếp tục sôi kinh nấu sử. Học tài, thi phận, khoa thi năm 1710, ông vẫn chỉ đỗ Tú tài. Hai lần thi không đỗ cao nhưng ông không những không nản chí mà quyết tâm càng cao hơn, dồn sức cho học tập càng nhiều hơn. Đến năm Nhâm Thìn niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 8 đời Lê Dụ Tông (1712) triều đình mở khoa thi. Nguyễn Trí Vị tham dự và đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân. Họ tên, quê quán của ông được khắc trên bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám: “Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân. Nguyễn Trí Vị: xã Sơn Đồng, huyện Đan Phượng”.
Ngay năm đó, ông được vua sắc phong khen ngợi vì đã đỗ đạt, đồng thời cử ông làm Giám sát ngự sử đạo Hải Dương, với chức trách giữ việc giám sát bách liêu, tuần án quận huyện, cứu thị hình ngục, chỉnh đốn triều nghi ở địa phương. Năm 1714, ông được thăng chức Hiến sát sứ tỉnh Thái Nguyên, hàm chánh lục phẩm. Hiến sát sứ là chức quan đứng đầu của Hiến sát sứ ty, chịu trách nhiệm quản lý việc thực hiện chức trách của Hiến sát sứ ty: đàn hặc, khám đoán, xét hỏi, hội đồng kiểm soát, khảo khoá, tuần hành.
Là vị quan tài năng lại tận tụy, cẩn trọng, ông được triều đình đánh giá cao, nên sau đó ông được triệu về kinh, sung làm Hàn lâm viện Đãi chế, chuyên việc hiệu đính văn thư, từ mệnh, lệnh chỉ, sắc phong…
Khoảng đầu năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1737), ông được sắc phong giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám, chức quan đứng đầu trường Quốc học, một trong những chức quan quan trọng đối với nền giáo dục, đào tạo nhân tài cho nhà nước và chỉ những người văn tài lỗi lạc, học vấn uyên thâm và đạo cao đức trọng mới được bổ dụng.
Chức trách của Tế tửu Quốc Tử Giám là trông coi Văn Miếu, ngày ngày đến nhà Thái học hội các học trò để giảng sách sử, hàng tháng theo đúng kỳ cho tập làm văn để gây dựng nhân tài. Ngoài ra, Tế tửu còn phải tổ chức đánh giá sự tiến bộ trong học thuật của học trò công bằng, khách quan vì những đánh giá đó là căn cứ để triều đình cất nhắc và bổ dụng. Nguyễn Trí Vị đã hoàn thành xuất sắc chức trách của một vị Tế tửu, góp phần củng cố, phát triển nền giáo dục nước nhà, được triều đình đánh giá là người có tâm thuật, hành sự cung kính trung cần.
Trong thời gian làm quan trong triều, Nguyễn Trí Vị là một người có tài, có đức, nhưng cũng luôn có ý thức góp sức xây dựng đất nước, quê hương, khích lệ chí khí hậu sinh. Năm Vĩnh Thịnh thứ 12 (1716), ông là người góp phần quan trọng trong việc xây dựng Văn miếu Đan Phượng, là người soạn bài ký cho bia “Văn miếu Đan Phượng huyện bút ký” đặt tại Văn miếu Đan Phượng. Bài ký là một tư liệu quan trọng không chỉ cho thấy con người Nguyễn Trí Vị, mà còn giúp ta nghiên cứu về Văn Miếu hàng huyện, về đời sống văn hóa, đạo đức làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XVIII. Văn bia cho biết, việc xây dựng Văn miếu là để tôn kính, biết ơn các bậc tiên triết, thánh hiền đời xưa đã gây dựng lên phong tục, giáo hóa tốt đẹp, để cho đời sau thấm nhuần văn chương, đức nghiệp. Bài ký cho biết, Văn Miếu được các thân sĩ địa phương quyên góp tiền xây dựng chỉ trong vòng một năm, là bởi vì: “Lòng bền thì không có việc gì khó. Công trình nguy nga, tráng lệ biểu hiện lễ nhạc của một vùng xuân thu nhắc nhở muôn đời. Khiến cho đạo lớn được không ngừng phát huy chí khí của hậu sinh được luôn khích lệ. Mở rộng đường, nên tài lương đống giúp nước yêu dân. Chưa được vậy, thì cũng là khuôn phép của bậc chân nhân, trí sĩ”.
Văn bia Văn miếu Đan Phượng là một sử liệu quan trọng trong việc nghiên cứu về lịch sử hình thành và tồn tại của các di tích Nho học Việt Nam, và về truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của người Đan Phượng nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung.
Năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1738), Nguyễn Trí Vị 70 tuổi, theo lệ được về trí sĩ được gia phong Hàn lâm viện Thừa chỉ, tước Đan Sơn bá, được nhà vua vinh phong hàm Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, được khao lão thượng thọ theo tục lệ của làng.
Nguyễn Trí Vị mất năm 1743 tại quê nhà, hưởng thọ 74 tuổi. Nhà vua hay tin đã phong tặng ông là Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Công bộ Hữu thị lang Đan Sơn bá, và ban cho 500 quan tiền để làm ma chay, 200 quan cho con cháu dùng vào việc thờ cúng hàng năm. Ông ra đi trong sự tiếc thương và lòng cảm mộ của gia đình, dòng họ, nhân dân địa phương và văn thân sĩ phu cả nước. Với những cống hiến của ông cho đất nước và sự phát triển văn hóa tại Đan Phượng quê hương ông, ông xứng đáng là một nhà trí thức, một nhà giáo dục lớn của quê hương Đan Phượng.
Ths. Hoàng Mai Lan -Cán bộ Phòng Nghiên cứu – Sưu tầm
Trung tâm HĐVHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM NGUYỄN CÔNG THÁI (1684 – 1758)
Nguyễn Công Thái húy là Phấn, tên tự là Hanh, sinh ra tại xã Kim Lũ, huyện Thanh Trì, (nay thuộc phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội). Kim Lũ (hay Kẻ Lủ) nổi tiếng là vùng đất giàu truyền thống hiếu học và khoa bảng ở Thăng Long. Dòng họ Nguyễn Kim Lũ là một trong những dòng họ có nhiều người đỗ đạt khoa cử, ra làm quan giúp nước như Nguyễn Công Thái, Nguyễn Trọng Hợp, Nguyễn Siêu… nên người xưa có câu ca dao:
“Nơi đây Lủ những ba làng
Lủ Trung mũ áo làm quan đại triều”
Từ nhỏ, Nguyễn Công Thái nổi tiếng thông minh, học giỏi. Năm 18 tuổi, ông thi đỗ Giải nguyên khoa thi Hương năm Nhâm Ngọ (1702). Khoa thi năm Ất Mùi, niên hiệu Vĩnh Thịnh 11 (1715), ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Cùng đỗ khoa này còn có nhiều danh sĩ như Nguyễn Quý Ân, Nguyễn Kiều ở Từ Liêm. Sau khi thi đỗ, Nguyễn Công Thái được triều đình điều ra Nghệ An và Thanh Hoa đảm nhận chức Giám sát Ngự sử rồi Hiến sát sứ Nghệ An, Đốc đồng Thanh Hoa, Tham chính Kinh Bắc. Năm 1720, ông được triệu về triều vào làm việc tại tòa Đông các với chức vụ là Đông các hiệu thư. Năm 1724, ông được nhậm chức Đông các Đại học sĩ. Năm Bảo Thái 8 (1727), Nguyễn Công Thái được thăng Hồng lô Tự khanh, tri Binh phiên. Năm 1728, trong khi giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám, ông cùng với Tả thị lang bộ Binh là Nguyễn Huy Nhuận đàm phán với sứ nhà Thanh về phân định biên giới. Hoàn thành sứ mệnh cũng là lúc triều đình tổ chức khoa Đông các, ông tham dự, trúng cách, được triều đình bổ nhiệm làm Phó Đô Ngự sử kiêm Đông các Hiệu thư, đồng thời được ban tước Kim Lĩnh bá. Năm 1733, Nguyễn Công Thái được thăng chức Thị lang Bộ Công, chức quan thứ 2 sau Thượng thư của bộ chuyên quản về việc sửa chữa, xây dựng thành trì, cầu cống, đường sá cũng như thợ thuyền, quản lý núi rừng, vườn tược, sông đầm… Ông hoàn thành chức trách của mình, có nhiều công lao đóng góp với triều đình, nên năm 1741, đặc thăng Tham tụng, Lễ bộ Thượng thư, tước Kiều quận công. Năm 1744, ông được triều đình thăng làm Hộ bộ Thượng thư, hàm Thiếu bảo, ban cho thực ấp, được chúa giao trọng trách Tham tụng. Từ đó, ông được giao nhiều trọng trách khác nhau, nhiều lần đảm nhiệm Tham tụng, trải các chức Thượng thư bộ Binh, Thượng thư Bộ Lễ, Thượng thư bộ Lại. Năm 1753, chúa tin cẩn, giao trọng trách Bảo phó để trợ giúp Thế tử Trịnh Sâm. Năm 1756, ông xin trí sĩ tại quê nhà. Năm 1758, Tham tụng, Lại Bộ thượng thư, Thái tử Thái bảo, Kiều quận công mất, được triều đình truy tặng hàm Thái tử Thái phó, ban tên thụy là Trung Mẫn, an táng tại quê nhà.
Nhà thờ Nguyễn Công Thái, Xã Đại Kim, Hoàng Mai, Hà Nội (Ảnh p.NCST)
Hơn 40 năm làm quan, Nguyễn Công Thái từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác nhau: từ Giám sát Ngự sử đến Tế tửu Quốc Tử Giám, Tham tụng, Thị lang bộ Công, Thượng thư Bộ Hộ, Thượng thư Bộ Lễ, Thượng thư bộ Binh, Thượng thư bộ Lại… ông luôn chứng tỏ tài năng và trí tuệ của mình, được được vua Lê chúa Trịnh coi trọng, tin dùng. Trong thời gian làm quan, ông đã 5 lần ông xin về trí sĩ, nhưng cả 5 lần ông đều được vời ra giúp việc ngay sau đó. Đặc biệt, trong thời gian ông đảm nhiệm chức Tế tửu (như Hiệu trưởng) Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên của Việt Nam, ông đã có những đóng góp không nhỏ đối với sự phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài ở nước ta.
Nguyễn Công Thái được bổ nhiệm Tế tửu Quốc Tử Giám vào khoảng năm 1728 với trách nhiệm Phụng mệnh trông coi nhà Văn Miếu, rèn tập sĩ tử, phải chiếu theo chỉ truyền năm trước, hằng tháng theo đúng kỳ cho (học trò trường Giám) tập làm văn, để gây dựng nhân tài, giúp việc thực dụng cho nước”(1). Theo quy định thời kỳ này, những người được bổ nhiệm chức Tế tửu Quốc Tử Giám phải là những bậc đại khoa, văn chương, trí tuệ uyên bác, đạo đức trong sáng. Nguyễn Công Thái là một quan chức mẫn cán, tài năng, chắc chắn không phụ lòng mong đợi của triều đình, hoàn thành xuất sắc chức trách của người quản lý và người thầy giáo, đào tạo được nhiều nhân tài cho đất nước.
Nguyễn Công Thái không chỉ là vị quan tài năng, hết lòng phụng sự đất nước mà còn là một tác gia. Ông đã có 7 lần soạn và nhuận sắc các bài kí được khắc trên bia đá tại ở hai địa điểm thiêng liêng, biểu dương cho tinh thần tôn sư trọng đạo, khích lệ truyền thống hiếu học của đất nước là miếu thờ Chu Văn An và Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Năm 1717, Nguyễn Công Thái là người soạn văn bia Văn Trinh công Từ bi kí(2) cho Miếu thờ Chu Văn An tại xã Huỳnh Cung tổng Cổ Điển huyện Thanh Trì (Hà Nội). Bài ký ghi về hành trạng, công tích của Chu Văn An, một vị Tư nghiệp Quốc Tử Giám nổi tiếng dưới triều vua Trần Minh Tông (1324 – 1329), một danh sư đồng thời là một danh nhân văn hóa tiêu biểu của Việt Nam. Bài ký là tư liệu quý cho chúng ta tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của một vị Tư nghiệp Quốc Tử Giám, một danh nho, người thầy đạo cao đức trọng, về lịch sử ngôi miếu thờ, cũng như truyền thống văn hóa uống nước nhớ nguồn của con người Việt Nam. Văn bia cũng cho chúng ta hiểu thêm được về bản thân con người Nguyễn Công Thái.
Đáng chú ý là 6 bài ký Văn bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám do Nguyễn Công Thái nhuận sắc, đó là các bài kí các khoa thi năm 1724, 1743, 1746, 1748, 1752 và 1754. Đây là những đóng góp lớn của Nguyễn Công Thái đối với nền văn chương nước nhà, bởi những bài ký trên bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám không chỉ được coi là những sử liệu quan trọng, mà còn là những áng văn chương uyên bác, mẫu mực (thể loại bi ký) còn lại ở nước ta. Thông thường, những người nhuận sắc – người sẽ hiệu chỉnh nội dung, rà soát sửa chữa văn phong, câu chữ để đảm bảo cho bài ký không chỉ chính xác về nội dung, tư tưởng mà còn chau truốt, hay về nghệ thuật, phải là người học vấn tinh thông, văn chương uyên bác. Nguyễn Công Thái là người tài giỏi trong lĩnh vực văn học và phải được Chúa tin dùng(3) và vì vậy ông được tín nhiệm giao cho việc quan trọng này.
Con người và sự nghiệp của ông đã được triều đình ghi nhận không chỉ ở những chức trách mà ông được giao phó, mà còn ở những sắc phong tặng cho ông. Nội dung 10 sắc phong liên quan đến Nguyễn Công Thái hiện còn giữ được cho chúng ta rõ hơn về nhân cách, con người ông. Các sắc phong tặng ông đề ghi những dòng khen ngợi: “Người có ngôn luận sắc bén, góc cạnh, phong thái riêng” hay “người có tâm thuật, có tài trong công việc, tiên phong, trung chính, chăm chỉ” hay “tính ông trong sạch, giản dị, thẳng thắn, có công to lập ngôi chúa nên được Ân vương rất tin cậy quý trọng”.
Những tư liệu như văn bia, sắc phong, gia phả hiện còn là bằng chứng chân thực về Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Công Thái, một danh thần, một nho sĩ thế kỷ XVIII, đồng thời là di sản văn hóa quý báu của dân tộc. Con người và sự nghiệp của Tiến sĩ, Tế tửu Quốc Tử Giám là bài học quý báu, là tấm gương sáng cho thế hệ sau học tập. Nguyễn Công Thái xứng đáng là một danh nhân văn hóa, niềm tự hào của người dân Kim Lũ Hà Nội nói riêng và của Việt Nam nói chung./.
Lâm Thuỳ Ngân - Cán bộ Phòng Nghiên cứu – Sưu tầm
Trung tâm HĐVHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM PHÙNG KHẮC KHOAN (1528-1613)
Phùng Khắc Khoan, tự Hoằng Phu, hiệu Nghị Trai, Mai Nham Tử, là người làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội. Tương truyền, ông là em cùng mẹ khác cha với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Là người nổi tiếng có văn tài, kiêm thông cả thuật số nhưng ông không đi thi và ra làm quan cho nhà Mạc. Dưới triều vua Lê Trung Tông (1548-1556), Phùng Khắc Khoan theo Lê Bá Lỵ phù Lê diệt Mạc. Năm 29 tuổi, ông đỗ đầu khoa thi Hương ở Yên Định - Thanh Hóa (1557), từng giữ chức Ký lục chuyên trông coi quân dân bốn vệ, tham dự việc cơ mật tại Ngự dinh của Thái sư Trịnh Kiểm. Ông làm quan đến chức Cấp sự trung Binh khoa, Cấp sự trung bộ Lễ, sau vì trái ý vua bị giáng chức ra Thành Nam (Nghệ An) rồi lại được triệu hồi. Năm Canh Thìn (1580), đời Lê Thế Tông, Phùng Khắc Khoan dự thi Hội, đỗ Hoàng Giáp, được bổ làm Đô cấp sự trung, năm 1585, được thăng Hữu Thị lang Bộ Công, rồi Thừa chính sứ Thanh Hóa. Năm 1597, ông được cử làm Chánh sứ sang triều Minh (Trung Quốc), khi về nước được thăng Tả Thị lang Bộ Lại, tước Mai Lĩnh Hầu, đến năm 1600 giữ chức Thượng thư bộ Công kiêm Tế Tửu Quốc Tử Giám, trước khi về trí sĩ, chuyển sang làm Thượng thư Bộ Hộ, tước Mai Quận Công.
Phùng Khắc Khoan là một nhà chính trị, ngoại giao xuất sắc. Mặc dù sống trong giai đoạn nội bộ đất nước đầy biến động nhưng ông luôn thể hiện rõ bản lĩnh của một trí thức đất Việt, ứng đối tài ba, bảo vệ quân mệnh quốc uy, khiến vua tôi Trung Quốc phải nể phục. Năm 1596, sau khi nhà Mạc bị Trịnh Tùng dồn ép ra khỏi Thăng Long, chạy lên biên giới Cao Bằng. Viện cớ nhà Mạc tố cáo: Vua Lê là vua rởm, nhà Minh sai sứ đem điệp văn sang ta đòi con cháu nhà Lê đến ở ải quan khám xét. Năm 1597, phái bộ tra xét của nhà Minh đến nơi, Vua Lê dẫn chủ tướng tới trình diện. Đoàn sứ Đại Việt do Phùng Khắc Khoan dẫn đầu được cử sang Yên Kinh (Bắc Kinh) cống nạp và xin sắc phong. Đến nơi, nhân gặp ngày sinh nhật của Vua Minh, Phùng Khắc Khoan đã làm một lúc 30 bài thơ chúc mừng. Xem xong, Vua Minh đặt bút phê khen rằng: “Hiền tài không chỗ nào là không có… Rất đáng khen” (Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú).
Bấy giờ, theo lệ cũ, nhà Mạc phải cống tượng người vàng cúi đầu song khi đến Yên Kinh, Phùng Khắc Khoan lại mang theo cống vật là tượng người vàng đầu không cúi mà nhìn thẳng. Thấy vậy, quan quân nhà Minh rất khó chịu, gây khó dễ không cho ông vào chầu. Phùng Khắc Khoan liền cãi rằng: “Nhà Mạc cướp ngôi danh nghĩa là nghịch, nhà Lê khôi phục lại, danh nghĩa là thuận. Nhà Mạc dâng người vàng cúi đầu thay mình, đã là may mắn. Nay lại bắt nhà Lê theo lễ nhà Mạc thì lấy gì để khuyên việc chiêu an và trừng giới việc trách phạt được” (Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú). Đuối lý, nhà Minh buộc phải chấp nhận, Phùng Khắc Khoan ung dung bước vào chầu, lĩnh ấn sắc đem về nước. Từ đó trở về sau nước ta không phải cống nạp tượng người vàng cúi đầu nữa. Cũng trong lần đi sứ này, dù vào tuổi “xưa nay hiếm”, ông còn làm thơ, ứng đối với sứ thần Triều Tiên, khiến họ nể phục tài năng, giúp khai quang mối quan hệ hữu hảo Việt - Triều.
Bên cạnh sự nghiệp chính trị, Phùng Khắc Khoan còn để lại nhiều tác phẩm văn học phản ánh hoài bão, khí phách và nỗi trăn trở của của một trí thức yêu nước. Hơn 500 bài thơ,văn còn lại bằng chữ Hán và chữ Nôm của ông đều mang tâm sự của một con người muốn nhập cuộc để có thể đổi loạn thành trị, cứu nguy thành an, vực lại kỷ cương, đạo đức xã hội đã một thời sa sút. Thơ chữ Hán của ông chuẩn mực, khuôn thước, thơ chữ Nôm giản dị, giàu phong vị, là một dấu ấn trong sự phát triển của thơ Nôm Việt Nam.
Phùng Khắc Khoan không chỉ là một tác gia nổi tiếng mà còn là một người Thầy đầy trách nhiệm với dân với nước. Khi làm Tế Tửu Quốc Tử Giám, ông làm việc hết lòng với vai trò chủ tế và chăm lo đào tạo nhân tài cho đất nước. Khi về trí sĩ tại làng quê, ông cho mở “Hoằng đạo thư đường” dạy dân chữ nghĩa, cùng bạn bè thưởng thức, đàm đạo văn chương, mở mang dân trí và cho dựng Nhật Tiên Kiều và Nguyệt Tiên Kiều ở chùa Thày, tô điểm cảnh quan làng quê thêm đẹp. Tương truyền, ông còn dạy dân làng cách làm cày bừa, đào mương, khơi ngòi, dẫn nước vào đồng, chống úng, cứu hạn, trồng trọt và dạy họ cả nghề dệt lụa, đan lưới để đời sồng ngày thêm no ấm.
Phùng Khắc là một nhà giáo dục, văn hóa, ngoại giao tài hoa ở thế kỷ XVI. Đương thời ông được Trịnh Tùng rất kính trọng, gọi là “Phùng Tiên sinh”, còn nhân dân, để tưởng nhớ công lao, trí tuệ của ông đã suy tôn ông là “Trạng Bùng”. Mai Quận Công Phùng Khắc Khoan mất tại quê nhà ngày 24 tháng 9 năm Quý Sửu (1613), thọ 86 tuổi, được phong Thái phó và lập miếu thờ tại quê hương./.
Hoàng Thị Tuyết Hương
Cán bộ phòng Nghiệp vụ Thuyết minh, Trung tâm HĐVHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám
TƯ NGHIỆP QUỐC TỬ GIÁM NGÔ SĨ LIÊN
Ngô Sĩ Liên sinh ra tại làng Chúc Lý, huyện Chương Đức, phủ Ứng Thiên nay là thôn Chúc Lý, xã Ngọc Hòa, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Hiện nay, chưa có tài liệu nào cho biết ông sinh năm nào, nhưng theo Đại Việt lịch triều đăng khoa lục, cũng như tấm bia hiện còn lưu giữ tại quê thì ông thọ 99 tuổi. Ngô Sĩ Liên từng tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Thái Tổ lãnh đạo chống lại giặc Minh. Sau khi nước nhà độc lập cũng là lúc nhà Lê mới thành lập, cần người tài giỏi, nên đã tổ chức nhiều khoa thi kén chọn quan chức. Năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo 3 (1442), Lê Thái Tông tổ chức khoa thi Tiến sĩ đầu tiên của triều Lê. Khoa thi này có 450 người dự thi và trúng tuyển được 33 người, trong đó có Trạng nguyên Nguyễn Trực, Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ, Thám hoa Lương Như Hộc. Ngô Sĩ Liên đỗ đầu hàng Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, tên ông hiện được khắc ghi trên bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Sau khi thi đỗ, ông được cử giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình. Dưới triều vua Lê Nhân Tông (1443-1459), ông giữ chức Đô Ngự sử. Theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, mục Quan chức chí, Đô Ngự sử là chức quan đứng đầu Ngự sử đài, cơ quan chuyên trách giữ phong hóa pháp độ. Ngự sử đài chịu trách nhiệm: Đàn hặc các quan, nói bàn về chính sự hiện thời. Phàm các quan làm trái phép, chính sự hiện thời có thiếu sót, đều được xét hặc trình bày, cùng là xét bàn về thành tích của các nha môn.. chức danh rất trọng.
Đời Lê Thánh Tông (1460-1497) ông từng giữ chức Lễ bộ Hữu Thị lang, là chức quan đứng hàng thứ 2 sau Thượng thư. Bộ Lễ là bộ chuyên công việc về lễ nghi, tế tự, yến tiệc, trường học, thi cử, áo mũ, ấn dấu, chương tấu, bài biểu, đi sứ... Năm Quang Thuận thứ 12 (1471), Lê Thánh Tông lấy Ngô Sĩ Liên vào làm Sử quan tu soạn, người chịu trách nhiệm trực tiếp biên soạn sử trong Quốc sử viện, cơ quan giữ công việc về biên soạn sử sách. Lưu Tri Cơ, sử gia nổi tiếng đời Tống (Trung Quốc) đã nêu lên yêu cầu thiết yếu về người làm công tác biên soạn lịch sử là phải có ba sở trường: tài năng, học lực và tri thức. Lê Thánh Tông, vị vua anh minh, tài lược đã chọn Ngô Sĩ Liên làm sử quan, hẳn đã đánh giá đúng tài năng và đạo đức của ông. Quả không phụ lòng tin của Vua, 8 năm sau, năm Hồng Đức 10 (1479), bộ Quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư mà ông biên soạn đã hoàn thành.
Bộ Đại Việt sử ký toàn thư được Ngô Sĩ Liên biên soạn trên cơ sở 2 bộ sách Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên. Ngô Sĩ Liên đánh giá cao những nhà sử học tiền bối này, nhưng cũng nêu lên những nhược điểm của hai bộ quốc sử, để từ đó hiệu chỉnh, bổ sung. Bộ quốc sử do Ngô Sĩ Liên hoàn thành gồm 15 quyển, chia thành hai phần: Phần một (ngoại kỷ), gồm 5 quyển, chép từ thời Hồng Bàng đến hết thời Bắc thuộc (năm 938). Phần hai (bản kỷ) gồm 10 quyển, chép từ thời Ngô Quyền dựng nước (năm 938) đến khi vua Lê Thái Tổ lên ngôi (năm 1428), trong đó, phần biên soạn mới của Ngô Sĩ Liên là phần Ngoại kỷ, chép lịch sử từ họ Hồng Bàng cho đến hết đời An Dương Vương - giai đoạn lịch sử lần đầu tiên được chính thức đưa vào quốc sử.
Qua các lời nhận xét của ông trong quá trình biên soạn về các sự kiện, nhân vật, cũng như phương pháp biên soạn sử của ông, các nhà nghiên cứu sau này đều thống nhất đánh giá, ông là một nhà sử học bậc thầy, là người có khả năng nhận xét tinh tế, trí tuệ tuyệt vời và là người có lòng yêu nước và tự hào dân tộc mãnh liệt. Bộ Đại Việt sử ký toàn thư của ông đã là cơ sở quan trọng, đặt nền móng cho bộ Quốc sử đầu tiên trọn vẹn còn lại cho đến ngày nay, một tư liệu không thể thiếu của các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, giáo dục, một di sản quý giá của nền văn hóa Việt Nam.
Không chỉ đóng góp trong lĩnh vực sử học, Ngô Sĩ Liên còn là một người thầy, một nhà giáo dục có nhiều đóng góp cho nền giáo dục nước nhà. Trong thời gian ông làm Tu soạn ở Viện quốc sử, ông còn giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Tư nghiệp là chức quan thứ 2 ở Quốc Tử Giám, sau Tế tửu và là quan chịu trách nhiệm chính đối với chương trình dạy, học ở Quốc Tử Giám. Chưa có những tài liệu cụ thể về những đóng góp của ông trong việc đào tạo nhân tài ở trường, nhưng chúng ta đều biết, giáo dục, khoa cử thời Lê Thánh Tông được coi là đạt đỉnh cao trong lịch sử khoa cử thời quân chủ. Chỉ trong vòng gần 30 năm dưới thời Lê Thánh Tông (1460-1497), giáo dục, khoa cử Việt Nam đã lựa chọn được hơn 500 vị Đại khoa qua 12 khoa thi. Đây cũng là thời gian ông đảm nhiệm chức vụ Tư nghiệp Quốc Tử Giám, trường học cao cấp, cơ quan quản lý giáo dục lớn nhất, quan trọng nhất của đất nước, là nơi đào tạo nhân tài, quan lại cấp cao cho bộ máy quản lý đất nước. Đóng góp vào sự hưng thịnh của giáo dục nước nhà thời kỳ này, hẳn không thể thiếu công sức, trí tuệ của ông.
Sự kiện ông tham gia làm giám khảo khoa thi năm Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức 9 (1478) là một minh chứng khẳng định nhận định trên. Văn bia Tiến sĩ khoa thi năm 1478 tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám ghi rõ chức vụ của ông tại khoa thi này là Độc quyển cùng với những nhà khoa bảng danh giá là Tiến sĩ, Hàn Lâm viện Thừa chỉ, Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung, Bảng nhãn,Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Như Đổ, Thám hoa, Đông các Học sĩ Quách Đình Bảo. Độc quyển là một chức quan rất quan trọng trong khoa thi, chịu trách nhiệm đọc bài thi sách đối của thí sinh trước khi trình lên Vua cùng những lời đánh giá, nhận xét, để từ đó nhà vua chọn lựa cao thấp. Khoa thi này chọn được 62 nhà khoa bảng với đầy đủ danh hiệu: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ… Đây là khoa thi chọn được nhiều nhân tài nhất trong lịch sử khoa cử phong kiến Việt Nam, trong đó có những danh nhân nổi tiếng như Vũ Quỳnh, Bùi Xương Trạch…Đặc biệt, Vũ Quỳnh là một trong những người góp phần hoàn thiện Bộ Đại Việt sử ký toàn thư của ông sau này.
Quan điểm về phương pháp tuyển chọn nhân tài của ông được thể hiện rõ qua những nhận xét đánh giá của ông trong bộ Quốc sử: chọn người bằng khoa cử thì văn học không thể thiếu được. Phương châm để lựa chọn người hiền tài cho đất nước này hẳn đã giúp Lê Thánh Tông xây dựng được quốc gia phồn thịnh.
Triều liệt Đại phu, Quốc Tử Giám Tư nghiệp kiêm Quốc sử Tu soạn Ngô Sĩ Liên nghỉ hưu và mất tại quê nhà. Dân làng kính trọng, lập đền thờ và hàng năm cúng tế vào ngày 20 tháng tám âm lịch. Dù cho đền thờ của ông do thời gian không còn, nhưng tên ông cùng những đóng góp của ông cho văn hóa, giáo dục nước nhà mãi mãi trường tồn trên bia Tiến sĩ, trên đường phố, các trường học ở Thủ đô Hà Nội và cả nước. Ông xứng đáng là một nhà giáo dục, nhà sử học lớn, một danh nhân của Hà Nội./.
Ths. Lê Thị Thu Hương
Cán bộ Phòng Thuyết minh – Nghiệp vụ, Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám
TẾ TỬU QUỐC TỬ GIÁM NGUYỄN TRỰC (1417-1473)
Nguyễn Trực tự là Công Đĩnh, sinh năm 1417, người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai (nay là thôn Song Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội). Ông xuất thân trong một gia đình dòng dõi, có truyền thống khoa bảng (Cụ nội làm Hàn lâm viện Thị giảng, ông nội là Nho học Huấn đạo, cha là Quốc Tử Giám Giáo thụ). Tương truyền, khi ông chưa đầy 10 tuổi đã nổi tiếng thần đồng, 12 tuổi đã làu kinh sử, thích làm thơ phú, 18 tuổi đỗ đầu kỳ thi Hương ở Sơn Tây, 26 tuổi đỗ Đình nguyên khoa thi Nhâm Tuất năm 1442, trở thành vị Trạng nguyên đầu tiên của triều Lê, được lưu danh trên bia Tiến sĩ đặt tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Nhà thờ Trạng nguyên Nguyễn Trực, xã Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Nội (Ảnh P.NCST)
Với kiến thức học rộng, tài cao, Nguyễn Trực đã đem hết tài năng của mình ra phò nhà Vua, giúp nước. Dưới thời Lê Nhân Tông, ông được bổ làm Trực học sĩ viện Hàn lâm, kiêm Vũ kỵ úy, thăng An phủ sứ phủ Nam Sách, khi về triều được bổ chức Thị giảng, kiêm Ngự tiền học sinh cục thứ hai viện Hàn lâm, tiếp đó giữ chức Trung thư Thị lang ở sảnh Trung thư (Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, Nxb Giáo dục, trang 282).
Nguyễn Trực từng vâng mệnh đi sứ Trung Quốc, tài ứng đối khôn lường của ông khiến nhà Minh vị nể, khen tặng là Lưỡng quốc Trạng nguyên. Ông là một nhà thơ danh tiếng, một thành viên ưu tú của Hội Tao đàn, được Vua Lê và quần thần kính trọng. Dân gian kể rằng mỗi khi vua Lê Thánh Tông làm xong một bài thơ mới thường đưa cho ông xem trước để ngâm vịnh.
Nguyễn Trực không chỉ là một vị quan thanh liêm, một nhà chính trị xuất sắc, thường được vua mời tham gia nghị bàn những việc cơ mật của triều đình mà còn là một nhà giáo ưu tú của đất nước. Năm Hồng Đức thứ 4 (1473), ông được thăng Gia hạnh đại phu, Thừa chỉ viện Hàn lâm, kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám(2), trở thành người đứng đầu trường Quốc học lớn nhất đất nước. Đây là một cơ hội lớn để ông biến những tư tưởng cầu hiền – trị quốc trong bài văn đình đối (viết năm Đại Bảo 1442) của mình trở thành hiện thực.
Những tư tưởng này chính là các tiêu chí đào tạo nhân tài, là những luận bàn về đạo của người Quân tử và kẻ Tiểu nhân trong đó khẳng định rõ đường lối chiêu hiền, đãi sĩ (dùng người quân tử, đẩy lui kẻ tiểu nhân) nhằm “trao chức vụ cho hiền tài, giao công việc chỉ theo năng lực cho những người có đủ 3 yếu tố: Trí - Nhân – Dũng, tạo điều kiện cho họ có thể cống hiến cho đất nước.
Muốn vậy, các bậc Đế vương cần xa lánh tiểu nhân, nêu gương sáng về tài đức cho trăm họ và giỏi thuật dùng người. Ông nói: "trí, nhân, dũng" là ba đức lớn lao trong thiên hạ, không có "trí" thì không thể biết người, không có "nhân" thì không thể chọn người, không có "dũng" thì không thể dùng người. Lấy "trí" biết người thì có thể biết rõ ràng và biết được thực tài của họ; lấy "nhân" chọn người thì không bỏ người tài ngay trong lúc họ khốn cùng, ắt chọn được lòng thành của họ; lấy "dũng" mà dùng người thì tin dùng mà chẳng nghi ngờ, ắt thấy được chuyên tâm của họ. Nếu có đủ ba điều "trí, nhân, dũng " thì nghĩa lý của việc "dùng người, bỏ người" sáng tỏ và lòng yêu ghét chính trung (Văn Đình đối của Trạng nguyên Nguyễn Trực khoa thi năm 1442, do PGS.TS Nguyễn Văn Thịnh dịch)
Đề cập đến cách tìm người Hiền, Nguyễn Trực cũng chỉ rõ:“Người hiền tài nơi dân chúng của muôn nước cũng là bề tôi của bậc Đế vương”. Vì vậy thì nhà Vua muốn trọng dụng người tài thì trước hết phải “gần gũi bề tôi cương trực, dùng kẻ sĩ chính trực để dẫn Vua đi vào đường đúng, đặt Vua ở chỗ không sai” và “chỉ có bậc đại nhân mới có thể sửa sai trái trong lòng Vua”. Từ quan điểm đó, ông đưa ra kết luận:“Vua có nhân, không ai không nhân; Vua có nghĩa, không ai không nghĩa; Vua chính không ai không chính. Trước nhất Vua chính thì nước mới định được”.
Chính nhờ những nhận định thẳng thắn, xác đáng này mà bài văn Đình đối của ông đã giật giải Nguyên trong kỳ thi năm 1442.
Nguyễn Trực qua đời vào ngày 28 tháng 12 năm Hồng Đức thứ 4 (1473) tại Thăng Long, hưởng thọ 57 tuổi. Tài năng và công lao của ông mãi được sử sách và dân gian lưu truyền./.
Ths. Đặng Anh Vân
Cán bộ phòng Nghiệp vụ Thuyết minh, Trung tâm HĐVHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám
TƯ LIỆU LỊCH SỬ GHI CHÉP VỀ HOÀNG GIÁP NGUYỄN DUY THÌ
Nguyễn Duy Thì sinh năm 1572, người xã Yên Lãng, huyện Yên Lãng (nay là thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên), là nhân vật lịch sử tiêu biểu của tỉnh Vĩnh Phúc.
Trong Gia phả của dòng họ Nguyễn có tiêu đề Yên Lãng Thượng thư công gia phả có ghi: “Ông sinh lúc sáng sớm giờ Canh Thìn ngày Ất Mùi mùng 10 tháng 3 năm Nhâm Thân, tự là Duy Thì.” Sự kiện Nguyễn Duy Thì đỗ Hoàng giáp khoa thi Mậu Tuất năm Quang Hưng 21 (1598) khi 27 tuổi đều được ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Việt lịch triều đăng khoa lục... Nội dung sắc phong năm 1651 (hiện lưu giữ tại nhà thờ), Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam nhất thống chí, cho ta biết Nguyễn Duy Thì mất năm 1651, thọ 81 tuổi. Sau khi mất, ông được ban tên thụy là Hành Độ, tặng chức Thái tể.
Ảnh: Triển lãm Nguyễn Duy Thì cuộc đời và sự nghiệp tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Trong hơn 50 năm làm quan, qua các tư liệu lịch sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, đạo sắc phong… cung cấp một số chức quan mà Nguyễn Duy Thì từng đảm nhiệm như: Công bộ Thượng thư, Binh bộ Thượng thư, Thượng thư Bộ Lại, giữ việc 6 Bộ… Đồng thời, các sử gia của các cuốn sách này cũng chép lại việc ông đi sứ nhà Minh năm 1606 và bài Khải “Đạo trị nước” mà Nguyễn Duy Thì cùng các quan Ngự sử 13 đạo dâng lên chúa Trịnh chỉ ra vai trò của người dân đối với đất nước, khuyên chúa nên “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”. Cuốn Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi lại sự kiện Nguyễn Duy Thì liên tiếp tham gia đánh tàn quân nhà Mạc vào các năm 1618 và 1623, lập nên công trạng nên được phong Dực vận tán trị công thần. Năm 1624 và 1649, Nguyễn Duy Thì được triều đình cử vào Đàng Trong gặp chúa Nguyễn. Các sự kiện này được chép trong Đại Nam thực lục.
Ảnh: Các sách chính sử lưu lại tên tuổi sự nghiệp của Nguyễn Duy Thì
Mặt khác, Ông còn kiêm nhiệm nhiều chức vụ khác thuộc lĩnh vực ngoại giao, văn hóa, giáo dục như Tư nghiệp rồi Tế tửu Quốc Tử Giám trong khoảng hơn 30 năm (khoảng năm 1620 đến năm 1651); làm Giám thí của khoa Quý Sửu niên hiệu Hoằng Định 14 (1613) và khoa thi Quý Hợi niên hiệu Vĩnh Tộ 5 (1623); Tri cống cử khoa Đinh Sửu niên hiệu Dương Hòa 3 (1637). Các sự kiện này lấy từ nội dung của các đạo sắc phong của dòng họ Nguyễn Duy ở Thanh Lãng và 3 tấm bia của ba khoa thi trên hiện được lưu giữ tại Di tích Văn Miếu-Quốc Tử Giám.
Hiện nay, trước tác của ông chỉ còn lại 3 bài văn bia (Đò Mát tự bi, Tĩnh Lự thiền tự bi, Bia Văn chỉ huyện Lương Tài). Thác bản của 3 tấm bia đá này được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Nội dung các tấm bia ghi lại 1 số chức quan mà Nguyễn Duy Thì từng đảm nhiệm đương thời, đó là: Thượng thư Bộ Công (1626), Thượng thư Bộ Lại kiêm Chưởng lục bộ sự, Tế tửu Quốc Tử Giám, Hàn lâm viện Thị giảng, Chưởng Hàn lâm viện sự, Thái phó, tước Tuyền Quận công (1648-1649). Hai bài thơ chữ Hán có tên Bạc chu Bành Thành ngộ tuyết thứ Chánh sứ Nguyễn Phác Phủ vận và Bành Thành hoài cổ họa Chánh sứ Nguyễn Phác Phủ của Nguyễn Duy Thì viết trên đường đi sứ nhà Minh năm 1606, được chép trong cuốn Toàn Việt thi lục.
Có thể nói, tư liệu lịch sử ghi chép về Nguyễn Duy Thì khá phong phú về thể loại và tương đối tin cậy như bộ chính sử (Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục), chí (Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam nhất thống chí), truyện (Công dư tiệp ký, Chư gia phát tích địa), gia phả, văn bia… Những ghi chép đó giúp chúng ta thu thập được nhiều sự kiện liên quan tới Tế tửu Nguyễn Duy Thì, góp phần tái hiện một cách khá chân thực về con người, cuộc đời, sự nghiệp, những đóng góp cho dòng họ, đất nước của ông thế kỷ XVI-XVII./.
Bài và ảnh: Ngân Anh
ĐỀN THỜ QUAN THƯỢNG LÁNG NGUYỄN DUY THÌ
Đền thờ Nguyễn Duy Thì (hay còn gọi là Đền thờ Quan Thượng Láng) nay thuộc tổ dân phố Đoàn Kết, thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Đền thờ có niên đại cách đây khoảng 400 năm, được dựng ngay trên nền phủ Bỉnh Quân - phủ của quan Thượng Láng Nguyễn Duy Thì. Đền thờ là nơi thờ cúng, tưởng niệm của con cháu dòng họ Nguyễn Duy đối với tổ tiên của mình là Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Duy Thì và con trai của ông là Hoàng giáp Nguyễn Duy Hiểu.
Ảnh: Tại nhà thờ Nguyễn Duy Thì, tổ dân phố Đoàn Kết, thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Nguyễn Duy Thì (1572-1651) thụy là Hành Độ, đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Tuất niên hiệu Quang Hưng (1598) đời Lê Thế Tông. Năm Hoằng Định thứ 7 (1606), ông được vua Lê - chúa Trịnh tin tưởng cử làm Phó Chánh sứ đi tuế cống nhà Minh cùng một số vị quan khác trong triều để tạ ơn vua Minh sách phong cho vua Lê. Trong năm 1612, Nguyễn Duy Thì cùng các viên Ngự sử 13 đạo dâng bài khải “Đạo trị nước” xoay quanh việc đề cao vai trò của người đứng đầu Nhà nước và người dân để ổn định đất nước sau những thiên tai, biến cố của xã hội thế kỷ XVII. Hơn 50 năm phò tá vua Lê - chúa Trịnh, Nguyễn Duy Thì từng đảm nhiệm nhiều chức vụ như sau: Tế tửu Quốc Tử Giám, Tham tụng, Thượng thư Bộ Lại kiêm Chưởng lục bộ sự, Hàn lâm viện Thị giảng, Thái phó, tước Tuyền Quận công… Sau khi mất, ông được triều đình truy tặng chức Thái tể.
Ảnh: Nhà thờ Nguyễn Duy Thì, phố Đoàn Kết, thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Nguyễn Duy Hiểu là con trai trưởng của quan Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Duy Thì. Năm Vĩnh Tộ 10 (1628), ông đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Thìn. Ông từng được cử đi sứ sang nhà Minh năm Dương Hòa 3 (1637). Ông làm quan đến chức Thiêm Đô Ngự sử.
Đền thờ được xây dựng theo kiến trúc chữ Nhị (二), bao gồm Tiền tế và Hậu cung, mái được lợp ngói mũi hài, tọa lạc trên một thế đất cao ráo, thoáng đãng nhìn ra trục chính của thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên. Tiền tế là nếp nhà 3 gian 2 chái, nơi thờ của Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Duy Thì; trưng bày sách quý; hội họp, bàn bạc các sự kiện quan trọng của dòng họ. Hậu cung là nếp nhà 3 gian, đầu hồi bít đốc, tay ngai, trong đó, gian chính giữa là nơi thờ của Quan Thượng Láng, hai gian còn lại là thờ tứ thân phụ mẫu của cụ Thì và con trai trưởng Nguyễn Duy Hiểu. Năm 2013, dòng họ đã đúc tượng đồng Nguyễn Duy Thì đặt trong cùng của gian thờ giữa. Tượng cao khoảng 1m, được tạc với tư thế ngồi trên ngai, chân buông cân đối phía trước, đầu đội mũ bó sát kiểu phốc đầu, mặc áo thụng dài, tay phải úp đặt lên đầu gối, tay trái cầm thẻ bài. Đường nét điêu khắc của tượng Nguyễn Duy Thì góp phần toát lên phong thái một vị quan hết lòng vì nước vì dân.
Ảnh: Mộ cụ Nguyễn Duy Thì
Hằng năm, ngày 11 tháng 9 âm lịch, con cháu họ Nguyễn Duy trên khắp cả nước sẽ tề tựu tại đền thờ để tổ chức ngày Giỗ Tổ, tưởng nhớ tổ tiên. Hai hiện vật quý giá được dòng họ Nguyễn Duy Thì lưu giữ đến ngày nay chính là cuốn gia phả chữ Hán và 34 đạo sắc phong cho Nguyễn Duy Thì, người thân của ông. Với những ý nghĩa và giá trị lịch sử như thế, nhà thờ đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 1993, trở thành một trong những di tích tiêu biểu của Thanh Lãng nói riêng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc nói chung.
Sưu tầm
HOÀNG GIÁP NGUYỄN DUY THÌ VỚI VĂN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM THĂNG LONG
Nguyễn Duy Thì sinh ra tại xã Yên Lãng, huyện Yên Lãng, phủ Tam Đới, nay thuộc thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Ông là nhà khoa bảng, vị quan đại thần có nhiều đóng góp cho đất nước trên nhiều lĩnh vực và cũng là một nhà giáo có nhiều đóng góp cho Văn Miếu - Quốc Tử Giám cũng như nền quốc học nước nhà nửa đầu thế kỷ XVII.
Ảnh: Tượng thờ Nguyễn Duy Thì tại nhà thờ họ Nguyễn Duy
Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long được khởi lập cuối thế kỷ XI. Trải qua nhiều lần mở rộng dưới thời Lý, Trần, đặc biệt dưới thời Lê Sơ, Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã trở thành một trung tâm giáo dục quốc gia lớn nhất, đóng vai trò vừa là nơi đào tạo quan chức, nhân tài cho nhà nước, vừa là nơi quản lý, định hướng cho nền giáo dục theo Nho giáo. Sang thời nhà Mạc và Lê Trung hưng mặc dù xã hội có những bất ổn nhưng Văn Miếu - Quốc Tử Giám vẫn được triều đình quan tâm, việc giảng dạy học tập được tổ chức quy củ, khoa cử dần ổn định đi vào nề nếp.
Nguyễn Duy Thì đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Mậu Tuất (1598). Ông trải qua nhiều chức vụ quan trọng khác nhau cho đến khi ông giữ chức Lễ bộ Tả Thị lang kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám; Rồi sau được thăng Thượng thư Bộ Công kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám năm 1640. Nguyễn Duy Thì mất năm Tân Mão (1651), triều đình truy tặng Thái tể, ban tên thụy là Hành Độ. Hơn 50 năm làm quan, ông trải qua nhiều trọng trách là một vị quan thanh liêm, khẳng khái, tin cẩn làm việc mẫn cán, chính trực hoạt động ở mọi lĩnh vực..., nhất là trong lĩnh vực văn hóa và giáo dục, ông có nhiều đóng góp cho đất nước.
Ảnh: Triển lãm Nguyễn Duy Thì tại hội thảo Nguyễn Duy Thì cuộc đời và sự nghiệp tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Hiện nay, tại nhà thờ Nguyễn Duy Thì ở Yên Lãng, Vĩnh Phúc có 04 đạo sắc phong nhắc đến chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám của ông, trong đó đạo sắc năm Vĩnh Tộ 2 (1620) có ghi “Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Lễ bộ Tả Thị lang kiêm Quốc Tử Giám Tư nghiệp Phương Tuyền bá Nguyễn Duy Thì”. Qua đó chứng tỏ ông kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám vào trước tháng 10 năm Canh Thân (1620). Đặc biệt, sắc phong cho ông kiêm giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám vào năm Dương Hòa 6 (1640), khi đó ông vẫn kiêm giữ Tư Nghiệp Quốc Tử Giám. Nguyễn Duy Thì được kiêm nhiệm Tế tửu từ năm 1640 và giữ chức này đến năm 1651 khi ông mất tại quê nhà. Như vậy, ông gắn bó với Quốc Tử Giám từ chức Tư nghiệp rồi Tế tửu trong thời gian rất dài, có nhiều đóng góp cho nền quốc học nói chung và Văn Miếu – Quốc Tử Giám nói riêng.
Nửa đầu thế kỷ XVII, đất nước còn nhiều bộn bề việc củng cố và ổn định ở Quốc Tử Giám là công việc đặc biệt quan trọng với triều đình. Nguyễn Duy Thì đã không phụ lòng tin cậy nỗ lực cùng các đồng sự tại Quốc Tử Giám chung sức gây dựng, củng cố việc đào tạo nhân tài cho đất nước. Ngay từ những năm 1620, nhiệm vụ của Nguyễn Duy Thì ở Quốc Tử Giám giúp triều đình phụ trách việc giáo đào tạo nhân tài, bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện nhân cách cho hiền tài sau này sẽ trở thành các vị đại thần trụ cột của đất nước. Hơn thế, Quốc Tử Giám cũng là cơ quan quản lý, định hướng nền giáo dục, khoa cử của nhà nước, nên sự hưng thịnh của việc đào tạo, bồi dưỡng nhân tài của nước nhà phụ thuộc và sự hưng thịnh, phát triển của Quốc Tử Giám, và ngược lại, nhân tài có được là nhờ phần lớn vào chiến lược, định hướng và sự phát triển của Quốc Tử Giám. Với hơn 30 năm kiêm nhiệm chức Tư nghiệp, rồi Tế tửu Nguyễn Duy Thì cùng với các học quan Quốc Tử Giám đã góp phần củng cố nền quốc học, chế độ khoa cử để lựa chọn nhân tài cho đất nước. Đó là nhờ một phần công sức của các học quan ở Quốc Tử Giám trong đó có Nguyễn Duy Thì.
Ảnh: Sách chính sử lưu lại tên tuổi của ông
Hoàng giáp Nguyễn Duy Thì cùng các vị quan đương thời còn được triều đình tin cậy trao cho trọng trách tổ chức 3 kỳ thi đại khoa vào các năm 1613,1623 và 1637 Trong 3 kỳ thi phân bố dài suốt 3 thập niên ấy, Nguyễn Duy Thì được giao trọng trách làm Giám thí hai lần, và một lần giữ nhiệm vụ là Tri cống cử. Ba kỳ thi này hiện còn bia đề danh Tiến sĩ đặt tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội.
Danh nhân Nguyễn Duy Thì là tấm gương sáng cho hậu thế noi theo. Tên tuổi của Ông cùng các vị danh nhân khoa bảng mãi trường tồn cùng với nền văn hóa và giáo dục của Việt Nam./.
Sưu tầm
HOÀNG GIÁP TẾ TỬU NGUYỄN DUY THÌ CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP
Quan Thượng thư, Hoàng giáp, Tế tửu Nguyễn Duy Thì là một danh nhân tiêu biểu của tỉnh Vĩnh Phúc và của nước ta ở nửa đầu thế kỷ XVII. Nguyễn Duy Thì là một người nổi tiếng tài và đức ở thời Trung hưng. Trong một thời gian dài là rường cột cho xã tắc và triều đình Lê - Trịnh
Ảnh: Làng nghề truyền thống trên quê hương ông
Nguyễn Duy Thì (1572 - 1651) sinh ra trong một gia đình và dòng họ có truyền thống Nho học, thuở nhỏ lại hiếu học, thông minh, có chí lớn, nhiều hoài bão nên ông đã sớm thành đạt và làm rạng danh cho bản thân, gia đình và dòng họ.
Nguyễn Duy Thì bắt đầu con đường quan trường sau khi thi đỗ Tiến sĩ năm Mậu Tuất (1598). Theo lệ của nhà Lê, các “Tiến sĩ” sau khi vinh quy về làng lại trở vào kinh sẽ được triều đình trao cho quan chức. Hoàng giáp trao cho chức Hiệu úy còn các Tiến sĩ khác thì trao cho chức Giám sát hoặc chức Cấp sự trung. Sau khi được lưu nhiệm, những viên quan này thông thường phải làm việc trong thời gian 9 năm thì mới lại được xét thăng thưởng hay thuyên giảm bãi miễn. Chúng ta có thể tin rằng trong khoảng ngót một chục năm đầu tiên, từ khi ông đỗ Tiến sĩ (1598), Nguyễn Duy Thì giữ chức vụ Cấp sự trung ở sáu khoa. Nhiệm vụ của ông là chuyên xét và bác trả lại cho sáu bộ những việc xét hỏi không công bằng, hoặc những việc bổ dụng đúng của Lại bộ.
Năm Hoằng Định thứ 7 (1606), Nguyễn Duy Thì được cử làm Phó sứ sang nhà Minh tuế cống. Sau chuyến đi sứ này trở về, ông được thăng Thiêm Đô Ngự sử tước Phương Tuyền bá. Trước đây, ông giữ chức Cấp sự trung hàm Chánh bát phẩm, sau 2 năm trở về, ông đã là Thiêm Đô Ngự sử ở hàng Chánh ngũ phẩm. Thăng một lúc 6 bậc (tương đương hàm Thứ trưởng ngày nay), rồi được thăng dần Đô Ngự sử phẩm tước ở hàng Chánh tam phẩm
Tới năm 1626, ông được thăng hàm Thượng thư tặng tước Quận công là tước vị cao nhất cho một người làm quan. Sau khi được thăng Thượng thư, Nguyễn Duy Thì liên tục được triều đình giao những chức vụ quan trọng. Ông lần lượt được giao cho các chức Thượng thư Bộ Công, Thượng thư Bộ Binh rồi cuối cùng là Thượng thư Bộ Lại, một bộ quan trọng nhất đứng đầu các bộ khác.
Năm 1642, Nguyễn Duy Thì được gia tặng Tham tụng có nhiệm vụ và quyền hạn như một vị Tể tướng, trông coi các quan, bàn việc chính sự của Nhà nước ở trong phủ Chúa, sẽ được thêm hàm “dự tán quốc chính” (dự giúp chính sự nhà nước). Xem thế ta thấy Nguyễn Duy Thì khi đó đã trở thành một vị đại thần bậc nhất ở triều đình cũng như ở phủ Chúa.
Trong cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Duy Thì còn được kiêm nhiệm thêm nhiều chức vụ khác thuộc các lĩnh vực văn hóa - giáo dục - khoa học (khoa giáo) như chức Tư nghiệp rồi Tế tửu Quốc Tử Giám. Quốc Tử Giám là một cơ quan chuyên môn của Nhà nước, có người còn gọi đây là trường Đại học đầu tiên và duy nhất của nhà nước phong kiến. Quốc Tử Giám đời Trần có chức Tư nghiệp. Đời Lê đặt các chức Tế tửu, Trực giảng, Bác sĩ, Giáo thụ. Các quan chức trong Quốc Tử Giám có nhiệm vụ phụng mệnh trông coi nhà Thái học, rèn tập sĩ tử, hàng tháng theo đúng kỳ cho tập làm văn để gây dựng nhân tài, giúp việc thực dụng cho nước.
Ảnh: Lăng mộ cụ Nguyễn Duy Thì ở quê nhà
Nguyễn Duy Thì sinh ra trong bối cảnh thời loạn, trong bối cảnh xã hội đầy biến động, triều đình vua Lê - chúa Trịnh luôn trong trạng thái phân quyền, quan chức bon chen, chao đảo, nhân dân thì sống trong cảnh rối ren khổ cực. Tấm lòng của ông đối với nhân dân được thể hiện sâu sắc và rõ nét nhất trong tờ Khải trình lên chúa Trịnh vào năm 1612. Nội dung bài Khải rất sâu sắc, là một trường hợp hiếm hoi được sử gia Lê - Trịnh chép lại gần như nguyên vẹn.
Tư tưởng chính xuyên suốt trong bài Khải của Nguyễn Duy Thì là: “Dân là gốc của nước, người trị nước phải biết thương dân”. Ta như gặp lại tư tưởng “thân dân” của các bậc tiền nhân thời trước như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi… phải là người hết sức cảm thông, thấu hiểu tình cảm của nhân dân, giàu lòng vị tha và ý thức được trách nhiệm lớn lao trước vận mệnh của nhân dân mới dám viết và viết được những dòng tâm huyết như thế.
Danh nhân Nguyễn Duy Thì cách chúng ta đã gần bốn trăm năm, một khoảng thời gian mà lịch sử đất nước trải qua bao nỗi thăng trầm, với con người có tư tưởng yêu nước thương dân, một ông quan thanh liêm chính trực, một con người giữ được chữ tâm rất sáng trong xã hội rối ren, kỷ cương phép tắc đảo lộn thì không có khoảng thời gian nào xóa nhòa được./.
Sưu tầm
THẦY CHU VĂN AN (1292-1370) VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CHO NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC
Thày Chu Văn An không chỉ là nhà giáo dục kiệt xuất mà còn là một trí thức, một nhà thơ và nhà văn hóa có nhiều đóng góp cho nền văn hóa dân tộc. Ca ngợi Thầy, tác gia Trần Nguyên Đán (1325-1390) - một trong những quí tộc, danh nhân tiêu biểu thời Trần từng viết: Thầy không chỉ là người có đức hạnh mà học vấn còn hết sức uyên bác “thấu triệt tận cùng nghĩa lí kinh điển, hiểu rộng về sử, công phu thực to lớn”.
Đương thời, Thày Chu Văn An đã biên soạn nhiều tác phẩm. Sách Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú (1782-1840) chép tác phẩm của Chu Văn An có Tứ thư thuyết ước (gồm 10 quyển giải nghĩa về bộ Tứ thư), tập thơ Tiều Ẩn thi tập (1 quyển), Quốc ngữ thi tập (1 quyển). Ngoài ra Thày còn viết sách về địa lý (Địa đạo dẫn giải chương cú tập chú ), về vũ trụ, thiên văn (Thiên văn chiêm nghiệm tập chú) và sách thuốc “Y học yếu giải tập”.
Thơ văn của Thày theo nhận xét của các văn nhân đời sau “rất trong sáng, u nhàn”. Còn nội dung các phẩm trên đều thể hiện rõ tính dân tộc, tập trung miêu tả những gì hiện thực trước mắt, những cảnh đẹp thiên nhiên, chú tâm đến cảm hứng con người Đại Việt, bình dị và “tự nhiên, có thể tưởng thấy ý thú thanh cao. chứ không bóng bảy, vay mượn điển tích nước ngoài.
Là một con người có tính cách cương trực, thẳng thắn, luôn giữ tiết tháo, thanh liêm, không màng danh lợi, nhân cách Chu Văn An là nhân cách của một trí thức, một nhà giáo dục, nhà văn hóa “không cầu người biết đến mình mà chỉ lo mình không có tài đức để người ta biết đến” và “học thành đạt cho mình là để thành đạt cho người, công đức tới dân, ân huệ để lại đời sau”, là tấm gương sáng cho hậu thế noi theo. Ngót 650 năm lịch sử đã trôi quan, những tư tưởng đó của Thày Chu Văn An về văn hóa, giáo dục vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa giáo dục tích cực to lớn trong lòng xã hội hiện đại./.
Trương Thúy Hồng
THẦY CHU VĂN AN VÀ VÙNG NÚI PHƯỢNG HOÀNG
(Ảnh: Đền thờ thầy giáo Chu Văn An trên núi Phượng Hoàng)
Trong thời gian giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, thầy Chu Văn An (còn gọi là Chu An) đã ra sức giúp vua đào tạo nhân tài, rèn cặp các vị Thái tử. Đến thời Trần Dụ Tông (1341 – 1369 ), chính sự rối ren, nhà vua ham mê chơi bời, xao lãng việc nước, triều thần lộng hành ... Trước nghịch cảnh đó, thầy Chu Văn An dâng “Thất trảm sớ” khuyên vua chém bảy tên gian thần. Vua không nghe, Thầy từ quan về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Trong sách Kiến văn tiểu lục, nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) đã viết: “Nói về nước ta thì triều Trần có 5 người (nổi tiếng tiết tháo, cương trực). Chu An dâng sớ xin chém bọn nịnh thần, làm rung động cả trong triều ngoài quận, rồi cáo quan trả mũ áo về nhà, không chịu để tước lộc bó buộc, vua chúa phải tôn trọng, công khanh phải kính phục, đấy là bậc thanh cao nhất…”.
Núi Phượng Hoàng là thắng cảnh có rừng thông bát ngát, suối trong rì rà, đá núi lô xô, chùa tháp cổ kính với 72 ngọn núi ngoạn mục. Một vùng núi nằm giữa một quần thể di tích và là nơi di dưỡng tinh thần của nhiều danh nhân từ thời Lý – Trần. Tại đây, thầy Chu Văn An tiếp chuyên tâm viết sách, dạy học, bốc thuốc cứu giúp dân nghèo và sáng tác nhiều thơ văn: Tiều ẩn thi tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập, Y học yếu giải... Đến nay hầu hết đã thất truyền, chỉ còn lại 12 bài thơ chữ Hán và tập Y học yếu giải. Mặc dù được sáng tác trong những năm cuối đời tại Phượng Hoàng nhưng thơ của Thầy (Linh sơn tạp hứng, Thanh Lương giang, Miết Trì, Xuân đán, Sơ hạ....) đều “rất trong sáng, u nhàn” toát lên tinh thần ung dung tự tại, không màng danh lợi của một người đã về ở ẩn, chỉ“khi có triều hội lớn mới đến kinh sư”. Tuy nhiên, sâu thẳm trong đó vẫn ẩn chứa khí tiết của người quân tử và nỗi lòng đau đáu hướng về đất nước:
Lòng như giếng cổ không xao sóng
Thân với mây đơn mãi nhớ ngàn[1].
Năm 1370, Thầy Chu Văn An qua đời, hưởng thọ 78 tuổi. Tưởng nhớ công ơn của Người Thầy “tinh thông về lý học, khi ra đời (xuất thế) cũng vì lễ, khi ở ẩn (thoái ẩn) cũng vì nghĩa”[2], nhân dân lập đền thờ (điện Lưu Quang) ngay tại nơi Thày dạy học. Phần mộ của Thầy vẫn nằm trên núi Phượng Hoàng, cách đền thờ chính ngày nay không xa. Ngày 14/9/1994, đền thờ Thầy Chu Văn An được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Vào những năm 2000, được phép của Bộ VH,TT&DL, Bảo tàng tỉnh Hải Dương và Viện Khảo cổ đã tiến hành nghiên cứu, khai quật vùng núi Phượng Hoàng, phát lộ nhiều di chỉ, hiện vật thời Trần, Lê liên quan đến Thày Chu Văn An (phần mộ, giếng son, tượng đá...). Nhằm phát huy những truyền thống tốt đẹp của địa phương và dân tộc, toàn bộ khu Di tích đã được trùng tu, tôn tạo lớn. Hiện nay, quần thể di tích Đền thờ Chu Văn An tại núi Phượng Hoàng, huyện Chí Linh đã trở thành một trong những địa chỉ văn hóa nổi tiếng, thường xuyên được du khách trong nước, quốc tế và nhiều thế hệ học trò thường xuyên viếng thăm để thể hiện lòng biết ơn, tôn kính đối với một trong những Người Thầy ưu tú nhất của Đất nước Việt Nam./.
[1] Trích bài thơ “Xuân đán” của thầy Chu Văn An.
[2] Trích văn bia thờ Thày Chu Văn An ở làng Huỳnh Cung do Tham tụng Bùi Huy Bích (1744 - 1802) biên soạn.
Bùi Bích Phương
NHỮNG ĐIỀU GÌ KHIẾN DÂN TỘC TA CÓ ĐƯỢC NHÂN VẬT LỊCH SỬ
CHU VĂN AN NHƯ CHÚNG TA ĐANG THẤY BÂY GIỜ?
( Ảnh: Đại biểu tham dự Hội thảo dâng hương trước hương án Thầy Chu Văn An)
1. Chu Văn An được cho là sinh năm 1292 và chắc chắn là mất năm 1370.Có nghĩa là “Người cùng thời đại”, “sàn sàn/cùng lứa” với những Trương Hán Siêu (1274-1354), Đoàn Nhữ Hài (1280-1335), Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370).
Nhưng Cụ không có vinh dự như Trương Hán Siêu (1274-1354) vốn là môn khách của Trần Hưng Đạo, được vị Đại vương này tiến cử, nhập triều. Cũng không có duyên may như Đoàn Nhữ Hài, chợt gặp và giúp được vua Trần Anh Tông thoát khỏi sự trừng phạt của Thượng hoàng Trần Nhân Tông (do say rượu), nhân đấy trở thành cận thần của vua Trần. Càng không giống như Nguyễn Trung Ngạn, sớm (16 tuổi) nhờ khoa cử đỗ đạt (Hoàng giáp) mà thành quan đại thần triều đình.
Các bậc danh sĩ này, đều chủ yếu thành quan chức lớn của triều đình nhà Trần, ở đời trị vì của vua Trần Anh Tông (1276-1293-1320) - một bậc quân trưởng, tuy đã ở vào cuối thời thịnh Trần - đầu thời suy Trần, nhưng “chưa đến nỗi nào”.
Còn Cụ Chu Văn An - lọt mắt xanh vua Trần Minh Tông (1300-1314-1357), được nhà vua giao việc kèm cặp, dạy dỗ các hoàng tử Trần Vượng, Trần Hạo, sau trở thành các vua Trần Hiến Tông (1319-1329-1341), Trần Dụ Tông (1336-1341-1369) thì đấy đều đã ở vào thời suy Trần rồi.
Vậy là “yếu tố (nhân tố) thời đại” tức “hoàn cảnh lịch sử” đã không giúp được gì tích cực cho/ vào việc hình thành rồi thành hình nhân cách con người và sự nghiệp cuộc đời đều rất lớn lao, đặc sắc - của Chu Văn An cả!
2. Cho dù thân phụ của Chu Văn An mang tên là Chu Thiện hay Chu Hưng (không có chữ “Văn” làm tên đệm, do đó, “Chu Văn An” - cái tên được quen gọi của Cụ, do bắt nguồn từ tước hiệu là “Văn Trinh” mà thành ra có chữ “Văn” làm tên đệm - chứ tên của Cụ, chỉ là hai chữ “Chu An” (giống cấu trúc tên cha mà thôi) thì đây cũng đều và chắc chắn là người phương Bắc, đến từ phương Bắc. Và là người phương Bắc, đến từ phương Bắc không phải với nhân thân và vị thế là quan chức, quý tộc hay đại gia mà chỉ là một thường dân (thậm chí như lời kể dân gian ở địa phương nói chỉ là một “chú khách bán thuốc ế”) thôi.
Trường hợp thân phụ Chu Văn An tìm đến làng Quang Liệt (Thanh Liệt), “tự do hôn nhân” mà cưới mẹ của Chu Văn An (là bà Lê Thị Chiêm) làm vợ - không có hôn lễ cầu kỳ, sang trọng nào - cũng vừa cho thấy rõ “thành phần gia đình” của cả cha mẹ, lẫn chính Chu Văn An - đều là bình dân (thứ dân).
Do đó mà yếu tố (nhân tố) và vấn đề dòng dõi, ở đây, cũng không giúp được gì cho thành sự hiển quý và danh giá của cuộc đời cùng sự nghiệp của cụ Chu Văn An cả!
3. Chẳng những thế, với tư cách (tư thế) là con của một gia đình, tuy mẹ là dân gốc làng quê Quang Liệt (Thanh Liệt), nhưng cha lại là “khách trú” (chú khách), cho nên, Chu Văn An mới chỉ được quê hương coi là “dân ngụ cư, đời thứ hai” thôi. Vậy là, theo lệ làng xưa phải “sau 3 đời ngụ cư mới được thành dân chính cư” - Chu Văn An trong quan hệ với quê hương Thanh Liệt vẫn chỉ là dân ngoại tịch!
Từ lâu rồi, nhiều nhà nghiên cứu đã nhận ra: có điều gì đó - “cấn cái” - giữa Chu Văn An lúc đương thời và làng quê Quang Liệt (Thanh Liệt) của mình, cho dù ngày nay sau 7 thế kỷ, quê hương đã vô cùng trọng vọng Cụ. Chẳng hạn như: mở ngôi trường danh giá đầu tiên trong sự nghiệp làm thầy của mình, Cụ đã không (hoặc không được) chọn lấy đất làng mà lại phải “ra rìa” làng, đến thôn bấy giờ là Huỳnh Cung chỗ giáp ranh giữa hai xã Thanh Liệt và Tam Hiệp! Chẳng hạn nữa, lúc dâng “Thất trảm sớ” mà không được nghe, Cụ đã từ quan “treo mũ ở của Huyền Vũ, ra đi (ra về)”, nhưng không phải là đi về quê hương bản quán như thời thường, mà lại đi ra tận Kiệt Đặc - Phượng Hoàng (Chí Linh - Hải Dương) để sống hết đời ở đấy!
Vậy là, làng quê Quang Liệt (Thanh Liệt), và mở rộng ra là cả huyện Long Đàm (Thanh Đàm, Thanh Trì), dù muôn vàn tươi tốt, và rất giàu truyền thống đa loại hình nhưng thực tế cũng không giúp được gì nhiều - vào lúc đương thời - cho và trong việc Chu Văn An thành vĩ nhân cả!
4. Vậy thì, nhân vật lịch sử kỳ vĩ Chu Văn An, thực sự đã nhờ vào đâu, dựa vào yếu tố (nhân tố) nào của lịch sử, xã hội và văn hóa lúc đương thời, để trở thành nhân vật lịch sử kiệt xuất ở thế kỷ XIV, và của cả dân tộc qua mọi thời đại?
Rõ ràng, Cụ là người đã/ biết/ và/ chỉdựa vào chính mình!
Chu Văn An là mẫu mực của một người với/ và có/ hàng loạt chữ “Tự”: Tự học - Tự tu - Tự lập - Tự tại…
- Về sự học, Cụ là người đã bắt đầu/ mở đầu, và luôn luôn/ suốt cả cuộc đời của một trí giả uyên thâm các tri thức, bằng tự học.
Chúng ta không tìm ra được một thông tin - tư liệu nào về người thầy và trường lớp mà cụ xưa đã theo học. Trái lại, bằng vào việc Cụ chính là tác giả bộ “Tứ thư thuyết ước”, ta thấy rằng Cụ đã tự chọn bốn cuốn “Đại học” “Trung dung”, “Luận ngữ” và “Mạnh tử” - kinh điển của Nho giáo và Nho học - để làm căn cứ mà tự học, và trong khi tự học và hành, thì đã làm “bút ký tóm tắt” (“thuyết ước”) và rồi biến công trình đó thành “sách giáo khoa” cho việc dạy học của mình luôn!
- Tự tu để trở thành không chỉ là một người thầy, mà còn và chính là một bậc “Vạn thế sư biểu”, Cụ đã hoàn toàn nhờ vào sự tự tu mà biến được mình thành một mẫu mực của nghề và nghiệp dạy học, không chỉ bằng việc truyền đạt kiến thức, mà còn và chính là bằng tấm gương sáng của bản thân mình. Cụ đã có thể la hét, quát mắng các học trò của mình, thậm chí quyết liệt lên án và đòi xử lý các tham quan ô lại giữa triều đình, chính bởi vì cụ đã rấtvà hoàn toàn tự tin vào sự hoàn thiện, sự gương mẫu của một bản thân đã được tự tu chu đáo của mình!
- Tự lập để dựng cơ đồ, trước tiên là bằng việc mở trường dạy học ở Huỳnh Cung, và sau cùng, cũng vẫn là bằng việc dựng điện Lưu Quang ở Phượng Hoàng để dạy học, không cần dựa dẫm, nhờ vả ai, đấy là những điển hình của việc tự lập của Chu Văn An.
- Có được vị thế và khả năng tự lập đó, Chu Văn An mới sung sướng mà thành được một nhân vật ung dung tự tại, để được mọi người nể trọng, đúng như nhận xét của bà Hiền Từ Thái hoàng Thái hậu: “Ông ta là người không thể bắt làm tôi được. Ta làm sao sai bảo được ông ta?” (trích “Đại Việt Sử kí toàn thư” tập 2, trang 152)
- Tác giả Nhà sử học Lê Văn Lan
- Trích Hội thảo khoa học “Danh nhân Chu Văn An – Con người và sự nghiệp”
ĐÓNG GÓP CỦA CHU VĂN AN ĐỐI VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM
* Mấy lời thưa trước: Cám ơn Ban chủ trì hội thảo “Chu Văn An - con người và sự nghiệp” của trung tâm Văn hóa khoa học Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội đã tín nhiệm giao cho tôi viết một báo cáo khoa học có tính tổng quát nội dụng của cuộc hội thảo này. Tôi chưa thể làm được vì thời gian có hạn vả lại hiểu của mình còn nông cạn, hơn nữa 20 bản báo cáo của các quý vị tại hội thảo có thể đã nói lên sự đóng góp của ông đối với văn hóa Việt Nam một cách toàn diện và sâu sắc rồi.
Vì vậy, tôi xin làm một việc có liên quan đến nội dung vấn đề mà Ban chủ trì hội thảo giao cho là công bố lại bài viết về Chu Văn An cách đây 24 năm (từ năm 1994) nhan đề “Chu Văn An, một nhân cách nhà giáo Việt Nam” với ý nghĩa “lịch sử” (mốc thời gian của nó) và bàn luận thêm về đóng góp của Chu Văn An đối với văn hóa Việt Nam từ góc nhìn của hôm nay.
1. Điểm mốc thời gian tôn vinh Chu Văn An trong thời kỳ Đổi mới đất nước
- Năm 1994 là năm bản lề của việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương bốn, khóa VII của Đảng Cộng sản Việt Nam, về giáo dục - đào tạo và về xây dựng văn hóa Việt Nam (khái niệm nền văn hóa “tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” ra đời từ đó). Trong việc nhận thức đúng đắn vai trò của giáo dục - đào tạo và của văn hóa trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng con người Việt Nam hiện đại, Đảng cộng sản Việt Nam đã nhìn nhận lại vai trò của các nhà giáo, tôn vinh các nhà giáo. Cũng trong bối cảnh đó, người đứng đầu Ban Khoa giáo Trung ương của Đảng Giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Đình Tứ - Bí thư Trung ương Đảng có ý định tổ chức kỷ niệm 625 năm ngày mất của Nhà giáo - danh nhân Chu Văn An vào năm 1995, nên yêu cầu tôi viết bài về Chu Văn An có tên “Chu Văn An - một nhân cách nhà giáo Việt Nam” đăng số 11 năm 1994 trên tạp chí Công tác khoa giáo của Ban Khoa giáo Trung ương (nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11). Sau đó bài viết được tuyển chọn dựa vào cuốn sách “Những gương mặt trí thức Việt Nam” tập 1 (năm 1995).
Vấn đề tôi muốn nói ở đây là trong giai đoạn Đổi mới toàn diện của đất nước từ năm 1994 - 1995 chúng ta bắt đầu một giai đoạn đánh giá và tôn vinh Nhà giáo Chu Văn An đúng với công lao và tầm ảnh hưởng của ông đối với nền giáo dục, văn hóa nói riêng và đất nước, con người Việt Nam nói chung (quá khứ và hiện tại). Với sự mở đầu ấy, tiếp theo từ năm 1996 tỉnh Hải dương đã trùng tu, tôn tạo di tích Phượng Hoàng và sau đó là Hà Nội cũng trùng tu, tôn tạo các di tích tại quê hương ông, hoạt động kỷ niệm, tôn vinh ông một cách long trọng.
Tiếp tục, hôm nay Trung tâm Văn Hóa khoa học Văn miếu - Quốc tử giám lại tôn vinh Chu Văn An trên một bình diện mới, không chỉ tôn vinh ông với tư cách một nhà giáo tiêu biểu mà với tư cách là một “Danh nhân văn hóa”, không chỉ tôn vinh ông trong không gian văn hóa Việt Nam mà hướng tới tôn vinh ông trong không gian văn hóa nhân loại (đề nghị Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc UNESCO kỷ niệm 650 năm ngày mất của ông). Một chặng đường gần 1/4 thế kỷ tên tuổi và sự nghiệp của danh nhân văn hóa Chu Văn An được tôn vinh rộng khắp cả nước và lên một đỉnh cao mới, có rất nhiều ý nghĩa, có rất nhiều điều cần suy ngẫm. Nhiều cơ quan trung ương và địa phương đã đóng góp vào công việc tôn vinh danh nhân Chu Văn An, trong đó Thủ đô Hà Nội và Ban quản lý khu di tích Văn miếu - Quốc tử giám có đóng góp to lớn và mới mẻ.
Đối với tôi cũng được vinh dự hay nói theo dân gian là được “hưởng lộc thánh” vì được là người viết về “bậc thánh cao nhất” với tư cách là một bài nghiên cứu “độc lập” mở đầu cho giai đoạn tôn vinh danh nhân Chu Văn An (1995-2020). Bởi như TS. Nguyễn Doãn Tuân là người đã góp phần quan trọng biên soạn cuốn sách “Chu Văn An người thầy của muôn đời” (xuất bản 2014) cho biết “từ đầu thế kỷ XX trở lại đây đã có hàng trăm công trình lớn nhỏ của các học giả, các nhà nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu văn học luận bình, tôn vinh về danh Nho, nhà giáo, nhà thơ Chu Văn An”. Song chỉ bình luận, tôn vinh Ông nhân khi viết về các vấn đề lịch sử, văn chương, giáo dục mà thôi, chưa ai viết riêng về Ông với tư cách danh nhân văn hóa nói chung. Bài viết của chúng tôi năm 1994 đã đề cấp đến hai nội dung cơ bản: 1 - Chu Văn An là một nhà sư phạm kiệt xuất; 2 - Chu Văn An là một trí thức luôn luôn quan tâm đến thời cuộc của đất nước (chúng tôi xin công bố lại ở nội dung thứ 2 của bài viết này, được xem là bước đầu bàn về những đóng góp của Chu Văn An).
2. Hai nội dung chính của bài viết về Chu Văn An năm 1994
1) Chu Văn An là một nhà sư phạm kiệt xuất của dân tộc
Trong Lịch triều hiến chương loại chí (QXI) Phan Huy Chú viết về Chu Văn An: “Học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt, trước sau chỉ có một ông, các ông khác không thể nào so sánh được”. Thật vậy, Chu Văn An khác hẳn những nhà nho xưa, ông suốt đời là một nhà giáo, thì đỗ không ra làm quan, mà về nhà dạy học. Khi ông ra làm quan, suốt 30 năm cũng chỉ là một ông quan dạy học, không nhận một chức vụ nào khác. Lúc treo ấn từ quan vẫn lấy việc dạy học làm vui, ông gắn bó cả cuộc đời với sự nghiệp cao quý “dạy chữ”, “dạy người”.
Trước tác của ông làm ra để phục vụ cho việc dạy học, Tứ thư thuyết ước được coi như giáo khoa giảng dạy Nho giáo của người Việt Nam biên soạn. Tinh thần sáng tạo, tinh thần dân tộc của ông trong việc biên soạn Tứ thư thuyết ước được người đời sau ca ngơi: “Cùng lý chính tâm” là tâm học, khác xa Tống Nho “cách vật trí tri” và còn đi trước cả Dương Vương Minh đời Minh (Trung Quốc).
Ông đào tạo được nhiều danh sỹ cho đất nước, trong số học trò của ông có cả Thái tử Vượng, sau này là một ông vua được các sử thần đời sau đánh giá là tốt. Theo huyền tích ở quê hương ông thì, ngay đến con trai Vua Thủy Tề cũng đã theo học nơi ông và đã hy sinh thân mình làm mưa cho dân làng vì thầy dạy học yều. Điều đó nói lên tài năng giáo dục của ông không chỉ tạo ra những vua tốt, tôi hiền mà còn cảm hóa được cả quỷ thần làm lợi cho dân, cho nước.
Trần Nguyên Đán, đại thần nhà Trần, một người học trò tinh thần của ông đã ca ngơi: “Bể học xoay chiều sóng, phong tục trở nên thuần hậu. Trường lớn trong nước được thầy dạy như Bắc Đẩu, Thái Sơn”.
Ông đúng là sao Bắc Đẩu, núi Thái Sơn, chèo lái biển học để đổi mới phong tục, xoay chiều thời thế, lấy giáo dục biến suy thành thịnh - đó là chí hướng, đó là tâm huyết nhà giáo chân chính Chu Văn An.
2) Chu Văn An là một trí thức luôn luôn quan tâm đến thời cuộc đất nước
Xưa nay, có người tưởng rằng ông quay lưng lại thời cuộc trước sự suy vi của chế độ phong kiến đương thời. Song, ông không phải là người như vậy. Ông nhập thế với ý thức của một trí thức Nho giáo rất rõ ràng, chỉ có điều bằng con đường riêng của mình - con đường dạy học, đào tạo nhân tài cho đất nước. Ông thường xuyên theo dõi chính sự, nên khi các học trò Lê Quát, Phạm Sự Mạnh (các quan lớn trong triều) về thăm thầy, đều nhận được những lời khuyên bảo, khiến họ lấy làm vui sướng.
Ông chọn việc dạy học, không làm quan tỏ ý coi thường danh lợi, nhưng khi triều đình yêu cầu ông ra Quốc tử giám dạy học cho Thái tử, ông đã chấp nhận. Bởi ông nghĩ rằng dạy dỗ một ông vua tương lai nên đấng minh quân sẽ đem lại lợi ích cho chính sự đất nước. Chính vì vậy, Trần Hiến Tông - đấng quân vương (học trò của ông) khi ở ngôi “không có việc làm lầm lỗi”, bởi “có bầy tôi hiền ( trong đó có ông - LQĐ) giúp việc chính sự, trên dưới đều cùng nhau sửa sang (Lịch triều hiến chương - Phan Huy Chú)
Việc ông dâng Thất trảm sớ vào thời Trần Dụ Tông, thể hiện ý thức trách nhiệm cao cả của một nhà Nho trước thời cuộc. Chúng ta chưa bàn đến khí tiết của ông, việc làm đó trước hết nói lên cuộc đấu tranh quyết liệt chống bọn quần thần gian tham vì sự nghiệp nhà Trần, vì cuộc sống của nhân dân, của kẻ sỹ quân tử “Coi việc thờ vua tất phải nói hết ý mình”, như sử gia Ngô Sỹ Liên đã nói về ông.
Nếu việc ông từ bỏ cuộc sống “ẩn sỹ” để vào Kinh dạy Thái tử có ảnh hưởng lớn lao đến văn hóa, giáo dục đương thời như thế nào, thì việc ông dâng Thất trảm sớ và từ quan về ở ẩn lại có tiếng vang về chính trị to lớn như thế ấy, đối với thời cuộc lúc đó. Với thái độ cứng cỏi, dám nói thẳng, khuyên can vua, lên án kẻ gian thần đã thể hiện “tấc lòng chưa thể như tro nguội” trước vận mệnh của dân, của nước ở trong ông. Lê Quí Đôn nhà bác học thời Lê, khi chép về Chu Văn An trong Kiến văn tiểu lục, không cần nói tới sự nghiệp giáo dục của ông, chỉ đánh giá việc dâng sớ đòi chém gian thần và cáo quan về ở ẩn đã khẳng định “đây là bậc thánh nhân cao nhất” (Q.5 KVTL).
Nhân cách nhà giáo Chu Văn An đã được lưu truyền trong sử sách Việt Nam từ đời này qua đời khác, từ thời Trần khi ông còn sống qua Lê sơ, Lê trung hưng đến thời Nguyễn và cho đến hôm nay. Thời đại nào cũng nhìn thầy ở ông một người trí thức không màng danh lợi, một nhà giáo tài năng và đức độ, kiên quyết chống lại khuynh hướng xu thời, nhưng luôn luôn gắn bó với thời cuộc, với sự nghiệp văn hóa và giáo dục của dân tộc. Ở đâu và lúc nào ông cũng muốn đem lại lợi ích cho dân, cho nước. Đúng như sắc phong thời Lê trung hưng, niên hiệu Cảnh Hưng 44 (1784) đã nêu cao công đức của ông: “đứng đầu các nhà Nho, làm rường cột cho đạo ấy. Ghét ác, trừ gian, lẫm liệt một thời chính khí, giúp dân giữ nước, bàng bạc muôn thuở anh linh”.
Nhân cách cao đẹp của Chu Văn An thật đáng tự hào biết bao đối với những người trí thức và những nhà giáo Việt Nam.
3. Những suy ngẫm mới về đóng góp của Chu Văn An đối với văn hóa Việt Nam
Thứ nhất, Chu Văn An “người thầy của muôn đời” dưới góc nhìn văn hóa học thì Chu Văn An không chỉ là “nhà giáo” trong lĩnh vực giáo dục mà Ông còn là một trí thức, một quan chức (dù chỉ là một ông quan dạy học), một nhà thơ và tựu trung là một nhà văn hóa tiêu biểu. Có người nói nằng, ngày nay chúng ta không còn duy trì nền giáo dục Nho học (chữ Hán và tư tưởng Nho giáo) thì sao có thể gọi Chu Văn An là “Người thầy của muôn đời” được? Nói như vậy là thiển cận, bởi Chu Văn An là một nhân cách văn hóa tiêu biểu, ông không chỉ dạy chữ và tri thức mà còn dạy làm người (tư tưởng, đạo đức, phẩm tiết) dạy con người biết ứng xử với đời, với chính mình và với thiên nhiên. Vả lại, nếu chúng ta biết chữ Hán, hiểu tư tưởng Nho giáo một cách chuẩn xác, sẽ góp phần quan trọng làm nên nhân cách của con người nói chung và những nhà giáo, nhà tri thức và nhà cầm quyền tốt đẹp hơn. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh một nhà văn hóa kiệt xuất của thời hiện đại đã nói rõ, đã hành xử theo tinh thần tích cực, nhân văn của Nho giáo. Do vậy, Chu Văn An không chỉ là người thầy của muôn đời theo nghĩa hẹp mà là người thầy của muôn đời theo nghĩa rộng: Tấm gương của muôn đời, muôn người, muôn thế hệ người Việt Nam sau này.
Thứ hai, những tư tưởng của Chu Văn An về giáo dục - đào tạo, về đạo đức và văn hóa càng có ý nghĩa trong thời kỳ Đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Ông đã đề cao vai trò của tri thức, của giáo dục, đạo tạo và của văn hóa trong công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng chế độ và xã hội. Điều này đã được các báo cáo hội thảo hôm nay đề cập một cách sâu sắc. Ở đây chúng tôi chỉ nhấn mạnh rằng, tư tưởng của ông vẫn còn nguyên giá trị khi chúng ta khẳng định vai trò của giáo dục - đào tạo là “quốc sách hàng đầu” trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay và chúng ta đang thực hiện công việc đổi mới giáo dục toàn diện hiện nay. Đồng thời, chúng ta cũng đang quan tâm đến việc xây dựng con người và văn hóa Việt Nam theo quan điểm “văn hóa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”, tạo ra “nguồn lực nội sinh quan trọng nhất” cho sự phát triển đất nước.
Thứ ba, con người, sự nghiệp và thời đại của Chu Văn An cho chúng ta một bài học sâu sắc rằng, văn hóa là nền tảng tinh thần, là mẫu số chung của mọi thời đại. Thịnh suy của mọi thời đại đều gắn với các nền tảng tinh thần ấy, thời đại Chu Văn An sống và thực hành văn hóa là khoảng giao nhau giữa thời Thịnh Trần và Mạt Trần. Thời Thịnh Trần các nhà cầm quyền biết đề cao văn hóa, tri thức và người trí thức nên “võ công oanh liệt, văn trị vẻ vang”. Thời Mạt Trần thì các nhà cầm quyền coi thường văn hóa, tri thức và người trí thức, cho nên cơ nghiệp suy vong từ đấy. Khi trí thức không được trọng dụng thì “không còn ai bảo ban vua đạo hay lẽ phải nữa”, hay khi trí thức bị nghi ngờ “không tin bậc hiền nhân thì nước trống rỗng như không có người vậy” - đó là một lẽ (Đại Việt sử ký toàn thư). Lễ thứ hai thời Thịnh Trần các nhà cầm quyền đều có tri thức, có văn hóa hay “trở nên có tri thức” thì đất nước phát triển, hưng thịnh. Còn thời Mạt Trần thì các nhà cầm quyền lại “ương gán, cố chấp” đã dẫn đến sự suy tàn của vương triều. Đó là bài học để đời trong văn hóa nói chung và văn hóa chính trị nói riêng cho chúng ta.
Thứ tư, toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Chu Văn An để lại cho chúng ta một nhân cách lớn của một nhà trí thức lớn. Các nhà sử học, các nhà văn hóa đề cao nhân cách của ông suốt mấy trăm năm qua, không chỉ bởi trí tuệ, đạo đức mà còn ở trách nhiệm của ông trước dân tộc, thời đại và đặc biệt là phẩm tiết cao cả của người sỹ quân tử. Với tinh thần trách nhiệm “đất nước lâm nguy, sỹ phu hữu trách”, ông đã làm hết sức mình, đã hy sinh quyền lợi cá nhân và cao hơn nữa là có thể cả tính mạng của mình với việc dâng “Thất trảm sở”. Với phẩm tiết cao cả không sợ cường quyền, không ham danh lợi luôn luôn đề cao lý tưởng của kẻ sỹ, mà sau này nhà bác học Lê Quý Đôn đã ca ngợi “Chu Văn An dâng sớ chém bọn nịnh thần, làm rung động cả trong triều, ngoài quận, rồi cáo quan trả mũ áo về nhà, không chịu bó buộc, vua chúa phải tôn trọng, công khanh phải kính phục. Đây là bậc thánh, cao nhất” (Kiến văn tiểu lục). Ông cũng để lại bài học về việc giải quyết xung đột giữa giới cầm quyền với giới trí thức (chân chính) cũng thường diễn ra trong lịch sử. Giới trí thức chỉ khẳng định được mình khi vượt qua khát vọng quyền lực, không chịu khuất phục cường quyền, không cầu cạnh lợi ích vật chất “thì Thiên tử cũng không bắt làm tôi được” (Ngô Sỹ Liên - Đại Việt sử ký toàn thư).
Thứ năm, Chu Văn An để lại cho đời một lối sống cá nhân mang sức mạnh nội tâm, một tâm hồn phong phú và mạnh mẽ gắn bó với con người, xã hội, thiên nhiên và với chính mình. Chúng tôi không bàn luận thêm về phẩm chất cao đẹp (chân-thiện-mỹ) của lối sống đó mà muốn nhấn mạnh giá trị nhân sinh của nó đối với chúng ta trong thời đại hiện nay. Thời đại hiện nay, trước sự phát triển nhanh chóng, tràn lan của khoa học, công nghệ ( đặc biệt là công nghệ thông tin); của điều kiện vật chất; của xu thế toàn cầu hóa... ngoài những yếu tố tích cực không thể phủ nhận của xu thế trên, thì nó cũng đem đến những yếu tố tiêu cực phản nhân văn cho lối sống cá nhân của con người. Đó là lối sống lệ thuộc quá mức vào điệu kiện vật chất, kỹ thuật; chạy theo danh lợi; đắm chìm trong sản phẩm công nghệ số...làm cho mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên ngày càng khô cứng, xa cách. Tâm hồn con người trở nên trống rỗng, vô cảm khi con người cô đơn trong sự hỗn độn giữa đám đông, giữa những người thân của mình, con người bị dồn nén bởi thông tin...Sức mạnh tinh thần phong phú giúp Chu Văn An đã sống một cuộc đời đầy ý nghĩa, tự tại, tự tôn trong bối cảnh xã hội (khi ông sống) gợi mở cho chúng ta một định hướng nhân sinh tích tực của mỗi con người hiện nay, dù mặt trái của đời sống xã hội giữa hai thời đại (của ông và chúng ta) không giống nhau, nhưng sức ép và sự tàn phá của chúng lại giống nhau.
Trên đây là một vài suy ngẫm về những đóng góp của Chu Văn An đối với văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, sau bài viết về ông hai mươi bốn năm trước.
Tác giả PGS.TS. Lê Quý Đức
Trích Hội thảo khoa học “Danh nhân Chu Văn An – Con người và sự nghiệp”
ẢNH HƯỞNG CỦA CHU VĂN AN VỚI ĐƯƠNG THỜI
Thời Trần (1226-1400) tuy khoa cử không thịnh đạt và nhiều thành tựu khoa bảng như triều Lê sơ nhưng là triều đại được Lê Quý Đôn cho là văn hiến "tinh anh nhân tài, khí phách văn chương không khác gì Trung Quốc"[1].
Trong phần Tài phẩm (tài năng phẩm hạnh), Lê Quý Đôn có viện dẫn nhân vật Lỗ Trọng Liên[2] để bàn về các cao sĩ của nước ta. Ông viết: "Vua nước Ngụy hỏi Tử Thuận về người sĩ phu thanh cao trong thiên hạ. Tử Thuận trả lời có Lỗ Trọng Liên. Lúc ấy người ta cho lời nói của Tử Thuận là đúng. Này, người sĩ thanh cao cư xử hợp với điều nhân, nắm vững được điều nghĩa, trong bụng giữ vững đạo đức, lợi lộc không thể dụ dỗ được, uy thế không thể uy hiếp được, suốt cả mọi sự việc thiên hạ không một vật gì có thể làm chuyển động trong lòng. Phong độ khí tiết của Trọng Liên thật xứng đáng là bậc cao sĩ.
Nói về nước ta thì triều Trần có 5 người[3]:
- Chu An dâng sớ xin chém bọn nịnh thần, làm rung động cả trong triều ngoài quận, rồi cáo quan trả mũ áo về nhà, không chịu tước lộc bó buộc, vua chúa phải tôn trọng, công khanh phải kính phục, đấy là bậc thanh cao nhất.
- Đặng Tảo được ban ơn, không lấy làm vui mừng, mà cam tâm ở nơi vườn ruộng. Về nhân vật Đặng Tảo, Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: Đặng Tảo đỗ Thái học sinh, sống vào cuối thế kỷ XIII, đầu thế kỷ XIV dưới triều Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Khi Trần Anh Tông mất, Đặng Tảo phụng mệnh trông coi lăng tẩm, mỗi khi Trần Minh Tông đến viếng thăm, ông thường lánh đi nơi khác không cầu cạnh gì. Minh Tông thương là nghèo, ban cho 20 mẫu ruộng, sai Trần Thế Hưng mang giấy cho. Ruộng này trước đã ban cho thứ phi của Minh Tông là Thiên Xuân. Thiên Xuân cứ giữ giấy cũ mà cày cấy, thế mà Tảo vẫn không tranh chấp với bà. Thế Hưng biết chuyện, tâu thực với vua. Vua lập tức thu lại giấy của Thiên Xuân, đem ruộng trả cho Tảo. Ông cũng chẳng lấy làm mừng[4].
- Trương Đỗ ba lần dâng lời can, không được vua dùng, mà đi ở ẩn không ra làm quan. Toàn thư chép về nhân vật này như sau: Trương Đỗ là người thanh liêm thẳng thắn, không bè đảng, phóng khoáng, có chí lớn... thi đỗ Tiến sĩ, rất nổi danh, làm quan đến chức Ngự sử đài tư gián Đình úy tự khanh Trung đô phủ Tổng quản. Khi giữ chức Ngự sử thời Trần Duệ Tông, ông ba lần dâng sớ can ngăn Duệ Tông thân hành đi đánh Chiêm Thành, lấy cớ rằng Chiêm Thành xa khơi, núi sông hiểm trở, chỉ nên dùng đức hóa an ủi để họ thần phục, không nên đem quân đi viễn chinh, nhưng không lần nào được Duệ Tông trả lời. Đỗ liền từ quan. Sau Duệ Tông thân chinh tử trận. Đánh giá về Trương Đỗ, sử thần Ngô Sĩ Liên viết: "Trương Đỗ khi làm quan thì không giấu lời nói thẳng, thế là đã xứng đáng với chức vụ của mình, khi can thì nói tới ba lần, thế là đã dám chạm đến cả vua. Vậy mà ông không được vua nghe, thế là tâm trí nhà vua đã lẫn rồi! Người có trách nhiệm phải nói, không được nghe theo thì bỏ đi, thế là sự tiến lui của Đỗ đều đã hợp lẽ phải vậy. Tuy lời nói thẳng thường trái tai vua, nhưng lại hay lợi cho thân vua. Việc này có thể làm gương được[5].
- Bùi Mộng Hoa biết họ Hồ chuyên quyền mà đi ở ẩn không ra làm quan. Bùi Mộng Hoa sống vào cuối thế kỷ XIV, dưới triều Trần Nghệ Tông và Trần Thuận Tông. Mộng Hoa từng dâng sớ nói Hồ Quý Ly sẽ cướp ngôi nhà Trần. Nghệ Tông đưa tờ sớ ấy cho Quý Ly xem, đến khi Quý Ly chuyên quyền, Mộng Hoa liền đi ở ẩn. Sự kiện này được Toàn thư cho biết: Tháng 4 năm Nhâm Thân, niên hiệu Quang Thái thứ 5 (1392), Bùi Mộng Hoa dâng thư, đại ý nói: "Thần nghe trẻ con có câu hát rằng: "Thâm hiểm thay Thái sư họ Lê. Xem thế, Quý Ly nhất định có ý dòm ngó ngôi báu". Thượng hoàng [Trần Nghệ Tông] xem xong tờ tâu rồi đưa cho Quý Ly. Sau Quý Ly chuyên chính, Mộng Hoa ẩn lánh không ra nữa"[6].
- Trần Đình Thâm giả làm tai điếc để tránh tai họa, mà không chịu thần phục bọn bạo nghịch cướp ngôi [chỉ Hồ Quý Ly].
Bốn người Đặng Tảo, Trương Đỗ, Bùi Mộng Hoa và Trần Đình Thâm được Lê Quý Đôn xếp vào bậc thứ hai.
Triều Trần tồn tại 175 năm, danh Nho, danh thần xuất hiện vô số, có thể kể đến các bậc danh Nho tiêu biểu như Lê Văn Hưu, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn ... Tuy thế, khi biên soạn Lịch triều hiến chương loại chí, phần Nhân vật, mục nhà Nho có đức nghiệp gồm 29 người của các triều Trần, Lê sơ, Mạc và Lê trung hưng, sử gia Phan Huy Chú chỉ chọn duy nhất Chu An, đại diện cho nho lâm thời Trần.
Chu An (Văn Trinh công hay Chu Văn Trinh) sinh năm Nhâm Thìn, niên hiệu Trùng Hưng thứ 8, triều vua Trần Nhân Tông (1292). Đây là thời kỳ quốc gia Đại Việt vừa trải qua cuộc binh lửa tàn khốc với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông chấm dứt chưa được bao lâu. Vương triều Trần bước vào giai đoạn tái thiết và phát triển đất nước.
Niên hiệu Khai Thái (1324-1329), dưới thời Trần Minh Tông (trị vì từ năm 1315 đến 1329, làm Thượng hoàng đến năm 1357), do có "học vấn về chính đạo", Chu Văn An được vời ra giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử giám, dạy Thái tử học (tức Thái tử Vượng, Trần Hiến Tông sau này). Đạo đức ông làm khuôn mẫu, đương thời ai cũng tôn trọng.
Tầm ảnh hưởng và tác động sâu sắc của Chu Văn An đối với đương thời được thể hiện trên hai phương diện: đạo đức, khí tiết thanh cao và cốt cách của người thầy.
Ở phương diện thứ nhất, hầu như nguồn tài liệu chính sử, văn bia đều ca ngợi phẩm chất, đạo đức của Chu Văn An hết mực. Năm 1370, Quốc Tử giám Tư nghiệp Chu Văn An mất, được truy tặng tước Văn Trinh công, ban cho tòng tự ở Văn miếu. Sử thần triều Lê đã dành cho Chu Văn An những lời ca tụng rất xác đáng: Ông,"tính cương nghị, thẳng thắn, sửa mình trong sạch, bền giữ tiết tháo, không cầu lợi ... Ông là người nghiêm nghị, lẫm liệt ... Minh Tông cho mời vào làm Quốc Tử giám Tư nghiệp dạy Thái tử học. Dụ Tông ham chơi bời, lười chính sự, quyền thần nhiều kẻ làm trái phép nước. Ông khuyên can, Dụ Tông không nghe, bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, đều là những kẻ quyền thế được vua yêu. Người bấy giờ gọi là Thất trảm sứ. Sớ dâng lên nhưng không được trả lời, ông liền treo mũ về quê ... Dụ Tông đem chính sự trao cho ông nhưng ông từ chối không nhận... ".
Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn luận: "Người hiền được dùng ở đời thường lo người làm vua không thi hành những điều sở học của mình. Người làm vua sử dụng người hiền thường lo người hiền không theo ý của mình. Cho nên, vua sáng tôi hiền gặp nhau, từ xưa vẫn là rất khó.
Những nhà nho nước Việt ta dùng được ở đời không phải không nhiều, nhưng kẻ thì chỉ nghĩ đến công danh, kẻ thì chuyên lo về phú quý, kẻ lại a dua với đời, kẻ chỉ cốt ăn lộc giữ thân, chưa ai chịu để tâm đến đạo đức, suy nghĩ tới việc giúp vua, nêu đức tốt cho dân được nhờ. Như Tô Hiến Thành đời Lý, Chu Văn Trinh đời Trần, có lẽ gần được như thế. Nhưng Hiến Thành gặp được vua sáng suốt, cho nên công danh sự nghiệp được thấy ngay đương thời. Văn Trinh không gặp vua anh minh nên chính học của ông, đời sau mới thấy được. Hãy lấy Văn Trinh mà nói, thờ vua tất thẳng thắn can ngăn, xuất xử thì làm theo nghĩa lý, đào tạo nhân tài thì công khanh đều ở cửa ông mà ra, tiết tháo cao thượng thì thiên tử cũng không thể bắt làm tôi được. Huống chi tư thế đàng hoàng mà đạo làm thầy được nghiêm, giọng nói lẫm liệt mà bọn nịnh hót phải sợ.... Ông thực đáng được coi là ông tổ của các nhà nho nước ta mà thờ vào Văn miếu"[7]. Lời tán tụng của Ngô Sĩ Liên đã cho phong thái, cốt cách, đạo cao đức trọng của Chu Văn An có tầm ảnh hưởng và tác động to lớn đối với đương thời và hậu thế sâu sắc lan tỏa đến chừng nào.
Bàn thêm về việc tòng tự ở Văn Miếu, chính sử cho biết: năm 1380, Nhập nội hành khiển Tả tham tri chính sự Kinh lược sứ Lạng Giang Đỗ Tử Bình chết được Trần Nghệ Tông cho được tòng tự ở Văn miếu, Sử gia Phan Phu Tiên đã có lời bàn: "Bậc danh nho các đời có bài trừ được dị đoan, truyền giữ được đạo thống thì mới được tòng tự ở Văn miếu, thế là để tỏ rõ đạo học có ngọn nguồn. Nghệ Tông cho Chu An, Trương Hán Siêu, Đỗ Tử Bình được dự vào đó, thì Hán Siêu là người cứng cỏi, bài xích đạo Phật, An sửa mình trong sạch, bền giữ khí tiết, không cầu hiển đạt, thì cũng tạm được. Đến như Tử Bình là hạng học nhảm chiều người, tham lam bòn vét, là kẻ gian thần hại nước, sao lại được len vào chỗ đó".
Về nhân vật Đỗ Tử Bình, sử thần Ngô Sĩ Liên phán xét: "Tử Bình lén đánh cắp vàng cống của Bồng Nga, tâu bày lừa dối, để đến nỗi Duệ Tông đi tuần phương Nam không trở về nữa, nước nhà từ đó liên tiếp có tai họa Chiêm Thành vào cướp, tội ấy giết cũng chưa đáng, còn học nhảm chiều người thì chê trách làm gì?".
Bàn về Trương Hán Siêu, Ngô Sĩ Liên cũng có ý kiến: "Trương Hán Siêu là ông quan văn học, vượt hẳn mọi người, tuy cứng cỏi, chính trực nhưng lại chơi với kẻ không đáng chơi, gả con gái cho người không đáng gả, so với Văn Trinh thì có gì đáng kể, huống hồ những kẻ còn kém hai ông này (tức Trương Hán Siêu và Trần Nguyên Đán). Như vậy, trong ba nhân vật thời Trần được tòng tự ở Văn Miếu, duy có Chu Văn An là người được đánh giá toàn vẹn, tuyệt đối nhất.
Sau khi từ quan, Chu Văn An về ẩn cư trên núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương), lấy hiệu là Tiều Ẩn và mất ở đây. Nơi ẩn cư của Chu văn An sau này được Tham tụng Bùi Huy Bích cho khắc tám chữ lớn trên bia "Chu Văn Trinh tiên sinh ẩn cư xứ". Năm 1841, Án sát sứ Hải Dương là Nguyễn Bảo (tức Nguyễn Thu, hậu duệ Tham tụng Nguyễn Hiệu, Nguyễn Hoàn) theo dấu cũ lập từ đường phụng thờ. Nội dung văn bia 朱 文 貞 先 生 隱 居 處 Chu Văn Trinh tiên sinh ẩn cư xứ (dựng khắc năm Thiệu Trị thứ nhất - 1841) có đoạn viết về Chu Văn An như sau: "... đến khi Nghệ Tông khôi phục lại nước, thì ông vui mừng chống gậy lên yết kiến, nhưng không chịu nhận chức tước, bái lạy mà xin về núi. Vua ban cho lễ rất hậu tiễn về, không bao lâu thì mất tại nhà.
Vua Nghệ Tông lệnh cho quan làm bài dụ tế, ban hiệu là Văn Trinh, lại ban hiệu là Khang Tiết tiên sinh, cho phụ thờ ở hữu vu trong Văn miếu. Từ triều Trần đến triều Lê cho đến quốc triều Minh Mệnh thứ 18, năm Đinh Dậu (1837), Lễ bộ đã nghị định điển lệ thờ tự mà chuẩn định cho tòng tự ở tả vu trong Văn miếu, làm ngôi vị nhà Nho đầu tiên"[8].
Tại di tích thờ tự Chu Văn An ở Phượng Sơn, Chí Linh còn đôi câu đối ca ngợi nhân cách, đạo đức Chu Văn An:
出 處 一 身 渾 是 道
風 清 千 古 獨 其 尊
Phiên âm:
Xuất xử nhất thân hồn thị đạo
Phong thanh thiên cổ độc kỳ tôn
Dịch:
Xuất xử một đời luôn giữ đạo
Thanh cao muôn thuở độc tôn vinh
Phương diện thứ hai: thể hiện phong thái, cốt cách bậc phu tử.
Trước khi trở thành Tư nghiệp Quốc Tử giám, Chu Văn An dạy học trò ở trường Huỳnh Cung. Là bậc cao sĩ "cứng cỏi, sửa mình trong sạch, giữ vững tiết tháo, không cầu danh lợi", khi chưa xuất thân (ra làm quan), Chu Văn An "chỉ ở nhà đọc sách ... cái học tinh túy chân chính". Ông dựng nhà học trên gò lớn giữa đầm để dạy học trò, xa gần nghe tiếng, đến học rất đông. Học trò của Chu Văn An sau này nhiều người thành đạt, trở thành "lương đống" của triều đình nhà Trần như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh.
Phan Huy Chú có nhận xét về tư cách làm Thầy của Chu Văn An: "Về tư cách làm thầy của tiên sinh rất long trọng mà cứng cỏi, nghiêm trang, ngay như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát đã làm chức Hành khiển, cũng đều giữ lễ học trò; khi tới thăm hỏi còn lạy dưới giường, được cùng thầy nói chuyện thì rất vui mừng. Nếu họ có điều gì không phải, ông trách mắng liền, có khi thét quở không cho vào. Nghiêm nghị đáng sợ là như thế. Đức vọng của ông rất cao, các bậc công khanh đều hâm mộ[9]".
Chỉ biết các nguồn thư tịch chép học trò của Chu Văn An khi còn ở trường Huỳnh Cung "xa gần nghe tiếng, đến học rất đông" hay khi ông dạy ở Quốc Tử giám...thì học trò hẳn sẽ rất nhiều. Tuy nhiên, số lượng là bao nhiêu, thành tựu thế nào, thực không có số liệu minh chứng. Nhưng, chắc chắn chúng ta biết được ba nhân vật quan trọng từng được thầy Chu Văn An rèn cặp, đó là Thái tử Vượng, danh thần Lê Quát và Phạm Sư Mạnh.
Theo Toàn thư, Thái tử Vượng là con thứ của vua Trần Minh Tông, mẹ đẻ là Minh Từ Hoàng thái hậu Lê thị. Ngày 2 tháng Bảy năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Khai Thái thứ 6 (1329), Đông cung Thái tử Vượng được sách phong là Hoàng Thái tử. Ngày 15 tháng ấy, Hoàng Thái tử Vượng (10 tuổi) lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Khai Hựu năm thứ nhất, ở ngôi 13 năm, hưởng thọ 23 tuổi, miếu hiệu là Hiến Tông. Sử thần chép về Trần Hiến Tông như sau: "Vua tư trời tinh anh, sáng suốt, vận nước thái bình, nhưng hưởng thọ không dài, chưa thấy làm được gì, đáng tiếc thay". Trong thời gian Trần Hiến Tông ở ngôi, trên thực tế, mọi công việc trọng đại của quốc gia vẫn do Trần Minh Tông quyết định (theo chế độ Thái thượng hoàng), do đó Trần Hiến Tông chưa thấy để lại công tích gì đáng kể.
Lê Quát và Phạm Sư Mạnh là hai học trò của Chu Văn An và cũng là hai bậc lương đống của triều đình, hai danh Nho nổi tiếng của quốc gia Đại Việt thế kỷ XIV. Sự nghiệp chính trị, văn hóa, ngoại giao của Lê Quát và Phạm Sư Mạnh được ghi chép nhiều trong các thư tịch cổ như Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục v.v... Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú xếp hai người này trong 10 người phò tá có công lao tài đức thời Trần, đó là: Trần Quang Khải, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Đoàn Nhữ Hài, Trần Thì Kiến, Phạm Tông Mại và Trần Nguyên Đán.
Phan Huy Chú chép về Lê Quát: "Ông ... học trò Chu An. Lúc bé du học ở Kinh sư, thi đỗ được Minh Tông biết đến... Ông do văn học mà được làm quan cùng nổi tiếng ngang với Phạm Sư Mạnh. Thời bấy giờ người ta khen "Lê, Phạm..."; và chép về Phạm Sư Mạnh: "Ông ...học trò Chu An. Đời Minh Tông, do Thái học sinh được cất lên làm ở sảnh viện và được sang sứ Nguyên... Ông có tài khí hùng hồn hơn người, nguồn thơ lai láng; đi khắp muôn dặm non sông, đến đâu cũng ngâm đề khắc để lại, lời đều hào hùng, thanh thoát đáng đọc..."[10]. Sở dĩ hai vị danh thần Lê Quát, Phạm Sư Mạnh có được sự nghiệp vẻ vang, thanh danh lưu truyền hậu thế không phải đã được tiếp thu tư tưởng và đạo học của thầy Chu đó sao.
Một trong những danh nhân tiêu biểu trong hàng tôn thất quý tộc nhà Trần là Trần Nguyên Đán cũng hết sức tôn trọng và kính phục bậc phu tử đứng đầu rừng nho Đại Việt - Chu Văn An. Trong bài thơ mừng Chu Văn An khi đang đảm nhiệm chức Tư nghiệp Quốc Tử giám, Băng Hồ tiên sinh viết:
Làm quay trở lại làn sóng của bề học, để lại phong tục thuần hậu
Nhà Quốc học được ông làm bậc thầy như núi Thái Sơn, như sao Bắc Đẩu
Học rộng khắp cả kinh sử là công lao lớn của ông
Kính người già chuộng dạo nho là chính hóa mới của nhà vua
Ngày mà người mang bít tất vải, dép cỏ về với nhà Hán
Lúc mà bậc tuổi già tắm cái đạo đức của Khổng tử ở sông Nghi
Nghiêu Thuấn chỉ là rủ áo để trị thiên hạ
Khó bắt được Sào Phủ, Hứa Do làm bề tôi cho mình...
Sử gia Ngô Sĩ Liên sau này cho rằng: "Ngàn năm về sau, nghe phong độ của ông, há không làm cho kẻ điêu ngoa thành liêm chính, người yếu hèn biết tự lập được hay sao? Nếu không tìm hiểu nguyên cớ, thì ai biết thụy hiệu của ông xứng đáng với con người của ông"; còn Lê Quý Đôn sau khi xếp ông là bậc thứ nhất trong hàng cao sĩ thời Trần cũng đưa ra kết luận: "Đấy là những người trong trẻo, cứng rắn, cao thượng, thanh liêm, có phong độ như sĩ quân tử thời Tây Hán, thật không phải người tầm thường có thể theo kịp được. Bởi vì nhà Trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi mà không bó buộc, hòa nhà mà có lễ độ, cho nên nhân vật trong một thời có chí khí tự lập, hào hiệp cao siêu, vững vàng vượt ra ngoài thói thường, làm rạng rỡ trong sử sách, trên không hổ với trời, dưới không thẹn với đất. Ôi như thế! Người đời sau còn có thể theo kịp thế nào được"[11] .
Không phải thời Trần, mà các triều đại sau vẫn coi Chu Văn An là người 振 奮 儒 風 Chấn phấn Nho phong (Chỉnh đốn làm rạng rỡ Nho phong). Tầm ảnh hưởng của đạo học mà Chu Văn An là người "truyền đạo thống" vẫn còn lan tỏa đến sau này và được phản ánh qua nội dung đôi câu đối:
學 理 發 揮 萬 古 芳 名 留 史 監
義 聲 振 動 千 秋 正 氣 仰 山 高
Phiên âm:
Học lý phát huy vạn cổ phương danh lưu sử giám
Nghĩa thanh chấn động thiên thu chính khí ngưỡng sơn cao
Dịch:
Học lý phát huy muôn thuở danh thơm nêu sử sách
Nghĩa thanh vang dội, ngàn thu chính khí ngưỡng non cao.
Tác giả: PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ (Viện Sử học)
Trích Hội thảo khoa học “Danh nhân Chu Văn An – Con người và sự nghiệp”
[1] Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục, Nxb VHTT, Hà Nội 2007, tr. 192.
[2] Lỗ Trọng Liên, người nước Tề, sinh vào thời Chiến quốc có nhiều mưu mô kỳ lạ mà không ra làm quan, du lịch sang nước Triệu, gặp lúc ấy nhà Tần vây nước Triệu, người nước Tần muốn suy tôn nhà Tần lên ngôi Hoàng đế để xin bãi binh. Trọng Liên nói: "nếu nhà Tần nghiễm nhiên xưng đế, thì Trọng Liên này chỉ có việc ra biển Đông để chết mà thôi". Nhà Tần nge được câu ấy, phải rút quân về. Sau Bình Nguyên quân đem ngàn vàng mừng Trọng Liên để làm lễ thọ. Trọng Liên không nhận mà nói: "người sĩ phu sở dĩ được quý trọng là ở chỗ cứu giúp người ta trong lúc hoạn nạn mà không nhận của tạ ơn, nếu nhận lấy, thì tôi không khác gì trò buôn bán".
[3] Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục, Sđd tr. 298.
[4] Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb KHXH, Hà Nội, 1993, tr. 107.
[5] Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr. 162.
[6] Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr. 185.
[7] Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr. 152-153.
[8] Ban Quản lý Côn Sơn - Kiếp Bạc: Di sản Hán Nôm Côn Sơn - Kiếp Bạc- Phượng Sơn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.595.
[9] Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 435.
[10] Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tr. 272.
[11] Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục, Sđd, tr. 299.
THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA CHU VĂN AN QUA NGUỒN TƯ LIỆU HÁN NÔM
Chu Văn An 朱 文 安, còn gọi là Chu An 朱 安 , hoặc Chu Văn Trinh 朱 文 貞 , tự Linh Triệt 靈 徹, hiệu Tiều Ẩn 樵 隐, sinh năm 1292, tại thôn Văn xã Quang Liệt huyện Thanh Đàm – Nay thuộc xã Thanh Liệt huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội.
Lúc nhỏ ông thông minh, học rộng, tính tình cương trực. Khi trưởng thành, ông dựng nhà học (trường học) ở gò đất tiếp giáp giữa làng ông với làng Cung Hoàng (sau đổi tên là Huỳnh Cung) lấy làm nơi giảng tập cho học sinh trong làng cũng như nơi khác đến học tập. Ngôi trường này, theo mô tả trong Phượng sơn từ chí lược 鳳 山 祠 志 略: Phía trước có hồ nước, làm thú hóng gió, tắm mát và để ngâm vịnh(1). Giáo trình giảng dạy của ông thời đó chắc chắn không vượt ngoài khuôn khổ của “Nhất thiên tự”, “Tam thiên tự” hoặc cao hơn là “Tứ thư”, “Ngũ kinh” cùng các tài liệu khác phục vụ cho thi cử.
Hiện chưa rõ ông đỗ đại khoa vào năm nào. Các sách Đăng khoa lục chép tay ở thời Lê đều không đề cập, chỉ có bộ Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục鼎 契 大 越 歷 朝 登 科 錄 của nhóm tác giả Nguyễn Hoàn, biên soạn và khắc mộc bản vào niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44 (1783), đưa danh tính, quê quán của ông vào mục “Bổ di 補 遺 ”, nhưng không ghi đỗ năm nào, học vị ra sao.
Song nếu căn cứ vào khoa cử thời Trần thì ở thời kỳ này, triều đình đã mở các kỳ thi đại khoa nhưng chưa thành thông lệ ba năm một lần như dưới thời Lê sơ, cho dù thi đại khoa ở thời Trần đã ổn định hơn so với thờ Lý. Các khoa thi đại khoa ở thời Trần chủ yếu là khoa thi mang tên “Thái học sinh”, người đỗ nhận học vị tương đương như học vị Tiến sĩ về sau. Hơn nữa, ở thời Trần chưa có sách Đăng khoa lục để ghi họ tên, quê quán, hành trạng của người đỗ đại khoa. Có chăng chỉ được đề cập vắn tắt trong chính sử đương thời. Lê Quý Đôn từng chia sẻ điều này: “Nước ta về hai triều đại Lý – Trần không ghi chép gì, vì thế tên người đỗ các khoa thi phần nhiều không khảo cứu được”(2).
Với lý do đó, có thể thấy các soạn giả của bộ Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục đưa ông vào mục “Bổ di” là nhằm tránh bỏ sót người đỗ đại khoa ở thời Trần. Do vậy chúng tôi cho rằng Chu Văn An đỗ Thái học sinh là có căn cứ, đành rằng vẫn phải để khuyết về năm đỗ Thái học sinh của ông.
Nhờ tài học nên ông được vua Trần Minh Tông (1314-1329), vào khoảng niên hiệu Khai Thái (1321-1329) mời ra giữ chức Tư nghiệp ở Trường Quốc Tử Giám Thăng Long. Trong thời gian này, ông dạy học cho Thái tử Trần Vượng, con của bà phi họ Lê. Về hình thức, với chức vụ Tư nghiệp, coi quản việc học tập trong Quốc Tử Giám song thực chất là để rèn cặp cho Thái tử Vượng trở thành vị vua đương triều. Đây là sự đóng góp to lớn của Chu Văn An vào sự nghiệp giáo dục, mà giáo dục ở đây là một vị vua trẻ, cho dù vị vua này được sử gia về sau đánh giá: “Vua tư trời tinh anh, sáng suốt, vận nước thái bình, nhưng hưởng thọ không dài, chưa thấy làm được gì, đáng tiếc thay”(3). Cũng trong thời gian dạy học ở Quốc Tử Giám, ông soạn ra bộ Tứ thư thuyết ước 四 書 說 約” – Một loại sách giáo khoa dùng cho sĩ tử đương thời.
Sau khi Trần Hiến Tông băng hà, Trần Dụ Tông lên ngôi (1341-1369), ông vẫn tiếp tục sự nghiệp giáo dục tại Quốc Tử Giám Thăng Long. Tuy nhiên đây là thời kỳ đất nước có nhiều biến động, bản thân vua là người bê trễ chính sự, sa đà vào con đường ăn chơi, khiến triều đình rối nát, loạn lạc nổi lên như ong. Bọn gian thần kéo bè, kết đảng, lũng đoạn triều chinh. Trong bối cảnh đó, ông dâng sớ chém 7 kẻ nịnh thần, gọi là Thất trảm sớ 七 斬 疏 .
Tờ sớ chấn động đương thời, nay chưa rõ diện mạo, nên không biết 7 kẻ nịnh thần là ai, chỉ có thể hiểu phần nào nội dung tờ sớ qua ghi nhận của Ngô Sĩ Liên: “Người hiền được dùng ở đời thường lo người làm vua không thi hành những điều sở học của mình. Người làm vua sử dụng người hiền thường lo người hiền không theo ý muốn của mình. Cho nên vua [sáng] tôi [hiền] gặp nhau từ xưa vẫn rất khó. Những nhà nho nước Việt ta được dùng ở đời không phải không nhiều nhưng kẻ thì nghĩ đến công danh, kẻ thì chuyên lo về phú quý, kẻ lại a dua với đời, kẻ chỉ cốt ăn lộc giữ thân, chưa có ai chịu để tâm đến đạo đức, suy nghĩ đến việc giúp vua nêu đức tốt, cho dân được nhờ ơn. Như Tô Hiến Thành đời Lý, Chu Văn Trinh đời Trần có lẽ gần được như thế. Nhưng Tô Hiến Thành gặp được vua (sáng suốt) cho nên công danh, sự nghiệp được thấy ngay đương thời. Văn Trinh không gặp vua (anh minh) nên chính học của ông đời sau mới thấy được”(4).
Sớ của ông không được Dụ Tông trả lời, ông xin từ quan. Về sau có đôi câu đối đề cập đến sự kiện này:
一 疏 歸 休 仕 止 允 速 之 間 衷 諸 道
四 書 說 約 格 致 誠 正 之 學 溯 其 傳
Nhất sớ quy hưu, sĩ chỉ doãn tốc chi gian trung chư đạo;
Tứ thư thuyết ước, cách trí thành chính chi học tố kỳ truyền.
(Dâng sớ xin trí sĩ, trong khi nghỉ việc quan lòng còn ôm chữ đạo;
Soạn Tứ thư thuyết ước, sự học cách trí thành chính còn lưu truyền) (5)
Ông trở về ở ẩn tại làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh (Hải Dương), làm nhà ở giữa hai ngọn núi Kỳ Lân – Phượng Hoàng và tiếp tục mở trường dạy học. Tuy là ở ẩn, vui thú với cảnh núi non, tránh xa giới quan trường song ông luôn nghĩ đến triều đình. Vua Dụ Tông có chỉ triệu ông hồi triều nhưng ông từ chối, khiến vua có ý tức giận,
Khi Dụ Tông băng hà, Dương Nhật Lễ tiếm ngôi, nhà Trần sắp mất, biết tin Trần Nghệ Hoàng phục nghiệp, ông rất mừng, về yết kiến rồi trở lại núi cũ, không nhận chức vụ gì. Ông qua đời vào cuối năm 1370, triều đình truy tặng tước Văn Trinh công 文 貞 公 , ban tên thụy là Khang Tiết 康 節, cho tòng tự tại Văn Miếu.
Đánh giá về cuộc đời ông, sử gia Phan Huy Chú viết: “Ông người làng Thanh Đàm, tính cứng cỏi sửa mình trong sạch, giữ vững khí tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Cái học của ông tinh túy chân chính, chỗ ở gọi là Văn thôn. Ông dựng nhà học trên gò lớn giữa đầm để dạy học trò, xa gần nghe tiếng, đến học rất đông. Học trò ông làm nên khá nhiều, thường có người làm chức cao trong chính phủ. Trần Minh Tông cho ông có học vấn về chính đạo, gọi ra cho làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, dạy Thái tử học. Đạo đức của ông làm khuôn mẫu, đương thời ai cũng trọng. Trần Dụ Tông chỉ thích vui chơi, trễ nải chỉnh sự, bề tôi nhiều người không giữ phép, ông can không nghe, mới dâng sớ xin chém 7 người nịnh thần,đều là những kẻ quyền thế được vua yêu; người bấy giờ gọi là sớ “Thất trảm”. Sớ đệ vào không thấy trả lời, ông mới treo mũ từ quan về làng. Ông yêu phong cảnh núi Chí Linh bèn đến ở đấy, tự đặt tên hiệu là Tiều Ẩn. Khi có lễ triều hội thì lại về kinh, Dụ Tông giao cho coi chính sự, ông từ chối không nhận. Bà Thái hoàng Thái hậu Hiến từ nói: “Bậc sĩ phu sửa mình trong sạch, dẫu thiên tử cũng không bắt làm bề tôi được, sao có thể đem chính sự giao cho người ta?”. Vua sai nội thần mang áo đến ban cho ông, ông tạ ơn xong rồi đem cho người khác. Ai cũng khen cái phong độ của ông là cao thượng. Khi Dụ Tông mất, ngôi nhà Trần sắp tuyệt. Nghe tin quần thần đón lập Nghệ Tông lên, ông rất mừng, chống gậy lên yết kiến. Rồi lại xin về làng, phong chức gì cũng từ chối không nhận. Vua lấy lễ tôn kính, sai quần thần đưa về. Không bao lâu ông chết ở nhà”(6).
Sau Chu Văn An, vào năm 1372, triều đình tiếp tục đưa Trương Hán Siêu vào thờ tại Văn miếu. Đến năm 1380, lại có Đỗ Tử Bình được thờ tự tại đây. Về sau các sử gia Việt Nam, từ Ngô Sĩ Liên, Phan Phu Tiên, Ngô Thì Sĩ đến Đặng Xuân Bảng đều có ý kiến nhận xét về từng người, chỉ có Chu Văn An là không bị công kích, hai vị còn lại phải đưa khỏi Văn miếu. Qua đây cho thấy ông được thờ suốt từ năm 1370 đến năm 1809, khi Văn miếu Quốc Tử Giám Hà nội không còn giữ vị trí là Văn miếu quốc gia, chuyển thành Văn miếu của Bắc thành. Đến năm 1837, ông lại được thờ tại Văn miếu Huế, khi văn miếu này chính thức trở thành Văn miếu cấp trung ương.
Tại Văn từ của huyện Thanh Trì, nơi ông được thờ làm tiên hiền, văn bia do Tiến sĩ Nguyễn Công Thái, người làng Kim Lũ (làng Lủ) huyện Thanh Trì soạn, ghi nhận: “ Ngài họ Chu, húy An, người huyện Thanh Đàm xưa, sinh vào thời Trần, trải qua bốn triều vua, có lúc về ẩn ở núi Chí Linh, sau được phong tặng là Văn Trinh công, phụ thờ ở Văn miếu. Ngôi đền này là thờ riêng, tục truyền là nơi ngài dạy học khi trước. Các triều đều gia phong trật, tới nay thờ làm Phúc thần […]. Phàm là kẻ sĩ quân tử, chuộng ở đạo đức, lập chí, lúc ra làm quan, lúc bỏ việc đều theo chính nghĩa, không theo thói đời. Xét các nhà nho nước Việt ta, duy có ngài là xứng với những điều đó” (7)
Tại Văn chỉ của nhiều xã cũng thờ Chu Văn An làm tiên hiền, trong đó có Văn chỉ của xã Văn Điển cùng huyện Thanh Trì. Lý do thờ Chu Văn An được giải thích như sau: “Trong đền của xã, các vị Nho sinh phải đặt lên hàng đầu, Chu Tiên sinh không phải là người xã Văn Điển, vậy cớ sao được đưa về thờ tại đây? Xưa nếu nước mà không có bậc tiên sư thì thờ tiên sư nước láng giềng. Huống hồ Chu Tiên sinh là bậc đại nho nước Việt ta lại là tiền bối của đất Thanh Trì. Tiên sinh đặt chí ở đạo, dốc lòng tu sửa đức hạnh, không màng tiếng tăm, đứng trong triều đình thì ngay thẳng, tiến thì giữ lễ, lui thì giữ nghĩa, nghe đến phong thái của ông cũng đủ phải kiêng nể, người đời gọi ông là Tiên sinh” (8)
Còn tại một số đình làng, như đình Thanh Liệt tổng Thanh Liệt huyện Thanh Trì, đình Huỳnh Cung tổng Cổ Điển huyện Thanh Trì… thờ ông làm Thành hoàng.
Về tác phẩm, trong Mục Tiên sinh thi tập 先 生 詩 集 , sách Phượng sơn từ chí lược, viết: “Tiên sinh viết sách và lập ngôn, cùng với chương sớ của nó ra sao, đời sau đã không thể tra cứu. Khoảng niên hiệu Cảnh Hưng thời Lê, Quế Đường Lê Quý Đôn, người Duyên Hà, biên tập thơ nước Việt ta, mới chép đủ sự trạng của tiên sinh và một số bài thơ do ông làm, trong đó gồm một bài cổ thể và mười bài thơ cận thể. Sau đó, ông Tồn Am Bùi Huy Bích ở Thịnh Liệt lại bớt đi một số và biên tập vào Việt âm thi tuyển, nay lưu hành ở đời chỉ còn một phần mười mà thôi” (9)
Qua tìm hiểu cho thấy tác phẩm của ông còn lại đến nay gồm 12 bài thơ chữ Hán chép trong Toàn Việt thi lục 全 越 詩 錄, của Lê Quý Đôn (A.132, quyển 2); Chu Văn Trinh Tiên sinh hành trạng thi tập 朱 文 貞 先 生 行 狀 詩 集 (VHv298); Thanh Trì Quang Liệt Chu thị di thư 清 池 光 烈 朱 氏 遺 書 (A.843); Phượng Sơn từ chí lược 鳳 山 祠 志 略 (A.195)… Những tác phẩm khác hiện chưa tìm thấy gồm Thất trảm sớ 七 斬 疏; Tiều Ẩn thi tập 樵隐 詩 集 và Tứ thư thuyết ước 四 書 說 約.
Như vậy có thể khẳng định trong cuộc đời hoạt động của Chu Văn An, ông đã giành gần như trọn đời cho sự nghiệp giáo dục ở 3 nơi khác nhau, là quê hương ông, Trường Quốc Tử Giám Thăng Long và Chí Linh, Hải Dương. Ông có lẽ là người đầu tiên ở nước ta mở trường tư dạy học cho học sinh ở làng xã trước đây phản ánh qua tư liệu thành văn Hán Nôm. Học trò của ông kể đến hàng nghìn, trong đó có nhiều người thành đạt, mà tiêu biểu là 2 nhà nho Phạm Sư Mạnh và Lê Quát. Hơn nữa có giai thoại cho rằng học trò của ông là thủy thần. Điều đó chứng tỏ ông không phân biệt học trò theo tầng lớp xuất thân, hoặc theo lý lịch, điều cốt yếu là nếu theo học ở ông, ông sẽ giảng dạy một cách chân thành. Đây là tư tưởng tiến bộ trong giáo dục học sinh của ông. Cách giảng dạy của ông cũng nghiêm khắc, khiến học trò nể phục. Ông không chỉ dạy cho con em nông dân nơi làng xóm mà còn giảng tập cho cả Thái tử ở triều đình. Đó được xem là thành tựu nổi bật trong sự nghiệp “ trồng người” của Chu Văn An.
Đối với làm quan, trước thời cuộc rối ren, ông khuyên vua trừ gian nhưng không được chấp thuận nên từ quan, về ở ẩn để tiếp tục dạy học. Khi qua đời, ông không chỉ được thờ tự ở Văn miếu Quốc Tử Giám Thăng Long, mà còn được thờ tại Văn miếu Huế. Cần nói thêm: Ông không chỉ được thờ với tư cách là tiên hiền ở Văn miếu, Văn từ, Văn chỉ từ trung ương xuống địa phương, mà còn được thờ với tư cách là Thành hoàng làng ở nhiều địa phương vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đây là điều đặc biệt trong tâm thức của người Việt Nam. Do vậy cần đánh giá sự cống hiến của Chu Văn An ở phương diện giáo dục là chính. Tức coi di sản về giáo dục do ông để lại giữ vị trí đặc biệt trong cuộc đời hoạt động của ông. Theo tinh thần đó, chúng tôi cho rằng Chu Văn An là nhà giáo dục xuất sắc nhất ở nước ta thời quân chủ.
________________
Chú thích:
(1) Phượng sơn từ chí lược, Mục Tiên sinh hành trạng, A.195, tờ 6b
(2) Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, Nxb Sử học, Hà Nội, 1962, tr. 117.
(3) Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.117.
(4) Đại Việt sử ký toàn thư (Sđd), tr.152-153.
(5)Phượng Sơn từ chí lược, A.195, tờ 40a.
(6) Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.364.
(7) Nguyễn Thị Ngọc Yến, “Nghiên cứu văn bản Phượng sơn từ chí lược”, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hán Nôm, tr. 111.
(8) Nguyễn Thị Ngọc Yến, “Nghiên cứu văn bản Phượng sơn từ chí lược”, (sđ d), tr. 113.
(9) Nguyễn Thị Ngọc Yến,“Nghiên cứu văn bản Phượng sơn từ chí lược”, (sđd), tr.99.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Đặng Xuân Bảng (2000), Việt sử cương mục tiết yếu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919) (1993), Ngô Đức Thọ (chủ biên), Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi, Nxb Văn học, Hà Nội.
- Chu Văn An người thầy của muôn đời (2012), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (2001), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
- Trịnh Khắc Mạnh (2007), Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
- Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Nxb Thuận Hóa, Huế.
- Trần Lê Sáng (1981), Cuộc đời và thơ văn Chu Văn An, Nxb. Hà Nội, Hà Nội.
- Hoài Việt (2003), Chu Văn An khuôn mặt người thầy, Nxb. Hà Nội, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Ngọc Yến (2010), Nghiên cứu văn bản Phượng Sơn từ chí lược, luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hán Nôm.
- Tác giả TS. Nguyễn Hữu Mùi (Viện nghiên cứu Hán Nôm)
- Trích Hội thảo khoa học “Danh nhân Chu Văn An – Con người và sự nghiệp”
THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP CỦA CHU VĂN AN QUA GHI CHÉP CỦA CHÍNH SỬ VÀ TƯ SỬ
I. Thư tịch cổ (Chính sử và tư sử) chép về cuộc đời, sự nghiệp của Chu Văn An
Bộ chính sử chép đầu tiên về Chu Văn An là Đại Việt sử ký toàn thư, trong đó, các tác giả đã phản ánh một cách khá đầy đủ, toàn diện về thân thế, sự nghiệp của Ông trong bối cảnh xã hội đang suy thoái cuối đời Trần. Để tránh tính trạng trùng lặp, chúng tôi xin trích phần đầu: “Quốc Tử giám Tư nghiệp Chu An mất, được truy tặng tước Văn Trinh công, ban cho tòng tự ở Văn Miếu…”[1], còn nội dung khác sẽ được sử dụng vào các vấn đề có liên quan trong bài viết.
Các bộ sử sau này như Đại Việt sử ký tiền biên của triều Tây Sơn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn, những trước tác của tư nhân như: Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Việt sử cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng…đều sử dụng ít nhiều những ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư để viết về Chu An.
Tổng kết chung những ghi chép về cuộc đời của Chu Văn An trong các bộ chính sử và tư sử, chúng ta có thể đúc rút ra mấy nhận xét nổi bật như sau:
1. Chu An hay Chu Văn An không rõ năm sinh, người làng Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là thôn Văn), xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội, mất năm 1370, tại núi Phượng Hoàng, huyện Chí Linh (nay thuộc địa phận phường Văn An), Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông có tên tự là Linh Triệt, tên hiệu là Tiều Ẩn, tên thụy là Khang Tiết tiên sinh, tước hiệu là Văn Trinh công. Vua Trần Nghệ Tông ban cho được thờ trong Văn Miếu ngay từ khi Ông vừa từ trần. Đền thờ của ông được lập tại quê nhà ở xã Thanh Liệt (trước là Quang Liệt, nay là thôn Văn), vào đời vua Gia Long (1802-1820), triều Nguyễn cấp cho dân phu để giữ đền, năm Tự Đức thứ 3 (1850), phong Ông làm Thượng đẳng thần, hằng năm xuân thu nhị kỳ, văn thân hàng huyện tổ chức nghi thức tế lễ quốc gia tại đền[2]. Triều Nguyễn còn gia tặng ông là Khiết Hạnh Phương danh Ý cự Thanh quy Trác vĩ Thượng đẳng thần[3].
2. Chu Văn An là một người có tính cách cương trực, thẳng thắn, giữ tiết tháo, thanh liêm, không tham danh lợi. Sinh sống và làm quan trong tình hình xã hội triều Trần đang bước vào giai đoạn suy vi, khủng hoảng, nhưng Chu Văn An vẫn chứng tỏ là một vị Đại thần hết lòng phò tá vương triều Trần. Ông đã dũng cảm dâng “Thất trảm sớ” để trừ khử bọn nịnh thần, làm trái phép nước, khiến triều đình bị mất lòng tin với dân chúng. Khi không được vua đương tại vị hồi đáp cho kiến nghị tâm huyết xây dựng triều chính trong sạch, ông đã lập tức từ quan về ở ẩn tại Chí Linh, không một chút vương vấn về quyền lợi.
Nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã nhận xét về Chu Văn An: “hãy lấy Văn Trinh mà nói, thờ vua tất thẳng thắn can ngăn, xuất xử thì làm theo nghĩa lý,…tiết tháo cao thượng thì thiên tử cũng không thể bắt làm tôi được. Huống chi tư thế đường hoàng mà đạo làm thầy được nghiêm, giọng nói lẫm liệt mà bọn nịnh hót phải sợ. Ngàn năm về sau, nghe phong độ của ông, há không làm cho kẻ điêu ngoa thành liêm chính, người yếu hèn biết tự lập hay sao”[4]?
Các sử thần đều đánh giá cao tính cách thanh cao cùng phương thức hành tàng xuất xử (ra làm quan, về ở ẩn) của Chu Văn An. Hoàng giáp Bùi Huy Bích (1744-1802), người làng Thịnh Liệt, nay thuộc phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội, từng giữ chức Tham tụng và có nhiều công lao cho việc tôn tạo nơi thờ tự Chu Văn An ở quê hương Thanh Trì. Tham tụng họ Bùi soạn bài văn bia thờ Thầy giáo họ Chu ở làng Huỳnh Cung, đã khẳng định: “Kính nghĩ Phu tử, tinh thông về lý học, khi ra đời (xuất thế) cũng vì lễ, khi ở ẩn (thoái ẩn) cũng vì nghĩa”[5].
Chu Văn An được sĩ phu các triều đại quân chủ của lịch sử Việt Nam, mệnh danh là Ông tổ của tầng lớp trí thức Nho học Việt Nam: “Ông thực đáng được coi là Ông tổ của nhà Nho nước Việt ta mà thờ vào Văn Miếu”[6] . Sử thần Ngô Thì Sĩ nhận định về ông: “Chu Văn Trinh đạo học thuần túy, khí tiết cao thượng, ngay thẳng không nghĩ đến thân, lòng trung không quên vua, thong dong nơi triều hội, coi thường tước lộc, khi đi, khi tới, khi tiến, khi lui, từ hay nhận, lấy hay cho, rất chính đáng. Nước Việt, người được tôn là bậc tông Nho, từ xưa đến nay mới chỉ có một”[7]. Bác học Lê Quý Đôn khi viết về phần Tài phẩm (Tài năng phẩm hạnh) sách Kiến văn tiểu lục khẳng định: “Nói về nước ta, thì triều Trần có 5 người: Chu An dâng sớ xin chém bọn nịnh thần, làm rung động cả trong triều, ngoài quận, rồi cáo quan trả mũ áo về nhà, không chịu tước lộc bó buộc, vua chúa phải tôn trọng, công khanh phải kính phục, đấy là bậc thanh cao nhất”[8].
3. Chu Văn An là người tự học, sau nhiều năm nỗ lực phấn đấu, trở thành người Thầy giáo nổi tiếng nhất trong lịch sử giáo dục quân chủ Việt Nam.
Theo Chính sử và tư sử, ông thuở nhỏ tự học tại nhà “ham thích đọc sách”[9], rèn luyện sau trở nên “học vấn tinh thông, nổi tiếng gần xa, học trò đầy cửa”[10]. Chu Văn An lập nhà học ngay tại một gò lớn ở giữa đầm để truyền bá kiến thức[11]. Có nhiều môn sinh đã thụ nghiệp ở lớp học Huỳnh Cung, dựng tại thôn Văn của Thầy giáo Chu Văn An. Cho đến thế kỷ XVIII, Tiến sĩ Nguyễn Công Thái, người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì đồng hương của Chu Văn An, từng giữ chức Tế tửu Quốc Tử giám trong bài văn bia soạn năm Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717) hiện đặt tại Văn chỉ Chu Văn An (Đền Huỳnh Cung) ở xã Tam Hiệp, từng viết “Nay ở địa phương còn di tích Giảng đàn của ông”[12].
Trong số hàng ngàn môn sinh theo học tại lớp của Thầy Chu, không ít người đã đăng khoa, đỗ đạt thứ bậc cao trong các kỳ thi do triều Trần tổ chức tại Văn Miếu – Quốc Tử giám. Phạm Sư Mạnh và Lê (Bá) Quát là hai học trò xuất sắc nhất của Thầy Chu Văn An, đều được lựa chọn vào giữ trọng chức trong chính quyền triều Trần. Phạm Sư Mạnh (1300-1377), người làng Giáp Sơn, huyện Hiệp Sơn (nay thuộc xã Phạm Mệnh, huyện Kinh Môn), Hải Dương, thi đỗ khoa Thái học sinh đời Trần Minh Tông (1314-1329), từng làm quan đến chức Nhập nội Hành khiển tri Khu mật sự. Lê (Bá) Quát, quê Phủ Lý, Đông Sơn, Thanh Hóa, cùng thi đỗ Thái học sinh với Phạm Sư Mạnh, cũng làm quan đến chức Nhập nội Hành khiển Hữu bộc xạ. Tuy đã làm Đại thần chức trọng nổi tiếng trong triều, nhưng cả hai viên (Phó) Tể tướng mỗi khi đến thăm Thầy học Chu Văn An vẫn giữ nề nếp “tôn sư trọng đạo”, “lạy ở dưới giường, được nói chuyện với Thầy vài câu rồi đi ra thì lấy làm mừng lắm”[13].
Chu Văn An là một thầy giáo mẫu mực, luôn khuyến khích học trò dùng sở học của mình để giúp nước, giúp đời. Sau khi các môn sinh đã thành đạt, ông vẫn luôn dõi theo quá trình rèn luyện trưởng thành, động viên cổ vũ trước sự tiến bộ của từng người, nhưng đồng thời cũng rất nghiêm khắc với những người học trò không có chí tiến thủ, còn tạo ra tiếng xấu trong dân. Sử chép: “Kẻ nào xấu thì ông nghiêm khắc trách mắng, thậm chí la thét không cho vào. Ông là người trong sạch, thẳng thắn, nghiêm nghị, lẫm liệt đáng sợ đến như vậy đấy”[14].
Sau khi treo ấn từ quan, trở về vui với cảnh đồng ruộng thôn quê, “yêu cảnh núi Chí Linh, đến ở đấy”[15], ông vẫn tiếp tục sự nghiệp trồng người của mình. Những di tích hiện còn tại núi Phượng Hoàng như điện Lưu Quang, đền thờ trên núi, giếng Son đều là những chứng tích còn lại liên quan đến sự nghiệp trồng người vào những năm tháng cuối đời của Thầy Chu. Điện Lưu Quang: tương truyền là nơi Thầy Chu Văn An với tên hiệu Tiều Ẩn (Người tiều phu ở ẩn) truyền giảng. Đền thờ Chu Văn An là nơi sau khi ông mất, các học trò đưa lên an táng trên đỉnh núi làm thành nơi thờ phụng tế lễ. Dân gian còn truyền lại, trên đường lên điện Lưu Quang trước kia có một cái giếng tên gọi là Giếng Son, vì đáy giếng có lớp bùn màu đỏ thắm, được Thầy giáo Chu Văn An lấy lên để khô làm mực son viết chữ dạy học trò. Điều này cũng phù hợp với ghi chép về giếng Son trên núi Phượng Hoàng của Vũ Phương Đề trong tác phẩm Công dư tiệp ký biên soạn vào đầu thế kỷ XVIII:
“Đời Trần, Tiều Ẩn Tiên sinh, sau khi dâng Thất trảm sớ, bỏ quan về nhà. Tiên sinh ưa non nước Chí Linh, đến làm nhà ở, tức là núi này.
Tương truyền, dưới núi có giếng…
Tục truyền núi ấy sản sinh ra một thứ son sắc rất tươi đẹp, khác hẳn son các nơi khác…
Tương truyền dưới núi có giếng nước đỏ như son. Người ta lấy ống tre thò xuống đáy giếng múc son, nhũn như bùn, đem phơi khô thì rắn lại. Hạng son ấy là thượng phẩm”[16].
Sau này, bác học Phan Huy Chú khi viết về núi Phượng Hoàng cũng cho biết: “Dưới núi thì đáy giếng có ngọc châu quý, mềm như bùn, phơi khô thì thành ngọc…Trong thời Trần, Văn Trinh Chu [An] bỏ quan về, thích phong cảnh huyện Chí Linh, đến ở đấy…Cuối đời Lê, Hành Tham tụng Bùi [Huy] Bích có lập bia Văn Trinh công ở bên cạnh núi ấy”[17].
Các thư tịch cổ đều thông tin: năm 1370 Quốc Tử giám Tư nghiệp Chu Văn An mất, được truy tặng tước Văn Trinh công, ban cho tòng tự ở Văn Miếu, Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê còn cho biết thêm: “[Trần] Minh Tông mời ông làm Quốc Tử giám Tư nghiệp”[18]. Các sách sử sau như Lịch triều hiến chương loại chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục[19]… đều thống nhất chép: “Trần Minh Tông cho ông có học vấn về chính đạo, gọi ra cho làm Tư nghiệp Quốc Tử giám” [20].
Theo các nhà nghiên cứu: Chức quan Tư nghiệp xuất hiện đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc là vị quan phụ trách âm nhạc, kiêm giảng dạy, sau này đến năm 607 đời Tùy Dưỡng đế mới chính thức đặt chức quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (國子監司業), trật Tòng tứ phẩm, có nhiệm vụ làm Phó quan giúp đỡ cho Tế tửu trong việc quản lý học quan và giảng dạy tại Quốc Tử giám.
Căn cứ theo ghi chép của Quốc sử, thời điểm bắt đầu xuất hiện tên gọi chức Tư nghiệp ở Việt Nam ở đời Trần và vào khoảng những năm 1324-1329, Chu Văn An là vị quan giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử giám đầu tiên trong lịch sử Văn Miếu Quốc Tử giám [21].
Với chức trách là người đứng đầu Quốc Tử giám triều Trần, Chu Văn An được giao phó dạy học cho Thái tử, để sau này nối ngôi trị nước. Thời gian ông giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử giám, vào giữa những năm 20 của thế kỷ XIV niên hiệu Khai Thái (1324-1329)[22], triều vua Trần Minh Tông, khi đó Chu Văn An đang ở vào tuổi nhi lập (30 tuổi) [23], tức là thời kỳ đã trưởng thành về mọi mặt: cường tráng về sức khỏe, minh mẫn về trí lực, khá hoàn thiện về tri thức và nhất là đã nổi tiếng là một thầy giáo tài danh ở Thăng Long. Từ suy đoán trên, chúng ta có thể xác định các vị vua từng được Chu Văn An dạy dỗ, bảo ban như Thái tử Vượng sinh năm 1319, sau là vua Trần Hiến Tông lên ngôi lúc 10 tuổi, trị vì 13 năm (1329-1341), Thái tử Hạo sinh năm 1325, sau là vua Trần Dụ Tông kế vị khi mới 6 tuổi, ở ngôi 29 năm (1341-1369). Nhiệm vụ quan trọng của một vị Tư nghiệp trong việc dạy bảo cho các Thái tử, không chỉ truyền bá kiến thức Nho gia kinh điển, những bài học trị vì đất nước thành công cũng như thất bại của các triều vua Trung Quốc và các triều đại trước Trần ở Việt Nam, mà quan trọng hơn còn phải bồi dưỡng, rèn luyện các Thái tử trẻ tuổi biết sống nhân nghĩa, có đạo đức, làm vua có tình thương yêu, đồng cảm với dân chúng.
Khi chép đến sự kiện vua Dụ Tông mất vào mùa hè năm 1369, sử thần Ngô Sĩ Liên đã có lời bình “…Vua (Dụ Tông) biết tôn trọng Thầy dạy, nhưng lại không bàn việc nước với Thầy. Vì thế bậc hiền năng không nên chỉ để làm vì. Chu An đi rồi, không còn ai bảo ban vua đạo hay lẽ phải nữa. Đó thực là “Không tin bậc nhân hiền thì nước trống rỗng như không có người’ vậy”[24]. Thông qua việc phê phán Dụ Tông không biết sử dụng người tài năng và không đem quốc gia trọng sự bàn với Thầy dạy, sử thần Ngô Sĩ Liên khẳng định Chu Văn An đã lui về ở ẩn trước khi Dụ Tông mất một thời gian.
Thời điểm mà ông về núi Chí Linh, theo chúng tôi vào những năm đầu niên hiệu Đại Định (1358-1369). Sử chép: “Dụ Tông hoàng đế: Tên húy là Hạo, Con thứ mười của Minh Tông, ở ngôi 28 năm, thọ 34 tuổi…Đời Thiệu Phong chính sự tốt đẹp, từ năm Đại Trị về sau, chơi bời quá độ, cơ nghiệp nhà Trần suy yếu từ đó”[25]. Thời gian ông đảm nhiệm chức Tư nghiệp Quốc Tử giám hơn 30 năm, từ giữa những năm 20 đến những năm 50 cuối thế kỷ XIV.
Có thể khẳng định, cả cuộc đời của Chu Văn An gắn liền với sự nghiệp giáo dục, đào tạo nhiều nhân tài cho quốc gia. Trong khoảng mấy năm ở quê hương Thanh Trì hay thời kỳ vài chục năm làm quan cho triều Trần ở Kinh thành Thăng Long và giai đoạn hơn 10 năm ở ẩn núi Phượng Hoàng, ông luôn luôn tận tụy với vai trò là Thầy giáo. Ông đã hiến trọn đời cho công cuộc trồng người, ông xứng đáng với danh hiệu “Người Thầy giáo muôn đời” (萬代師表Vạn đại Sư biểu) của quốc gia Đại Việt triều Trần nói riêng và của Việt Nam nói chung.
4. Những trước tác của Chu Văn An để lại không nhiều, theo thống kê của Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú: ông biên soạn sách Tứ thư thuyết ước 10 quyển, Thất trảm sớ, có Tiều Ẩn thi tập (chữ Hán) và Tiều Ẩn quốc ngữ thi tập (chữ Nôm)[26], các sáng tác trên chỉ được truyền lại tiêu đề, chứ nội dung thì đã thất truyền. Sáng tác của Chu Văn An còn lại 12 bài thơ chữ Hán được chép trong tác phẩm Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn[27]. Các văn nhân các đời sau đều nhận định thơ của Chu Văn An “Lời thơ rất trong sáng, u nhàn” hay “lời thơ nhàn nhã, tự nhiên, có thể tưởng thấy ý thú thanh cao của người ở ẩn”[28].
II. Đôi điều cần giải mã trong thân thế, sự nghiệp của Chu Văn An
Theo ghi chép của thư tịch cổ về Chu Văn An, còn có những điểm xuất nhập và cần phải tìm hiểu, nghiên cứu thêm đặng làm nổi bật hơn những cống hiến quan trọng của ông đối với lịch sử dân tộc nói chung và đối với triều Trần và lịch sử giáo dục Việt Nam nói riêng. Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng người đã có thâm niên nghiên cứu và công bố nhiều công trình viết về lịch sử Thủ đô Hà Nội, từng trăn trở và đau đáu về việc nghiên cứu làm sao cho thấu đáo vị Sư biểu Việt Nam như sau: “Giới bác học – quảng vấn còn nhiều điều chưa rõ về Chu Văn An”[29].
Trước hết chúng ta cùng nhau tìm hiểu về họ tên của ông, các thư tịch chính sử và tư sử vừa đề cập đều chép ông là Chu An (朱安), nhưng hiện nay trên các sách vở, thông tin đại chúng đều viết thành Chu Văn An, vì sao lại có sự thay đổi như vậy?
Vào năm 1970, Dịch giả Lê Xuân Giáo khi biên dịch tác phẩm Việt sử yếu (越史要) viết bằng chữ Hán hoàn thành năm 1914 của tác giả Hoàng Cao Khải, cũng đã đưa ra nghi vấn về việc thêm vào tính danh của Chu An chữ Văn thành Chu Văn An. Trong mục Chép chuyện các vị danh Nho đời Trần: “Chu An, người làng Quang Liệt, huyện Thanh Trì…”, dịch giả chú thích: “Bây giờ viết là Chu Văn An, không biết chữ Văn ai thêm và thêm vào lúc nào”[30].
Gần đây có nhà nghiên cứu đặt lại vấn đề tên gọi của ông: “Trước hết về tính danh: từ Chu An đến Chu Văn An, hầu hết các sách từ triều Nguyễn trở về trước đều chép là Chu An. Có thể kể đến một số bộ sử lớn và các tài liệu viết về Chu An… Chưa rõ vì lí do gì mà từ sau năm 1954 trở lại đây, hầu hết các sách đều viết là Chu Văn An. Thế rồi dần quen, ít người bàn đến chuyện này nữa…Chính vì hiện trạng này, cho nên cũng không cần thiết đặt lại vấn đề có phải trả lại tên cho ông nữa hay không”[31]. Như vậy nghi vấn về vấn đề tính danh thực của Chu An, do dịch giả sách Việt Sử yếu và tác giả sách Chu Văn An – người Thầy của muôn đời cách nhau hơn 40 năm (1970-2012) đặt ra, chưa được lời giải đáp.
Chúng tôi phát hiện ngay từ thời Nguyễn, vào đời vua Tự Đức (1848-1883), các sử thần trong Quốc sử quán triều Nguyễn đã chép cụ thể họ và tên của Chu Văn An. Bộ Đại Nam nhất thống chí (大南一統志) phần viết về Nhân vật (人物) của tỉnh Hà Nội (河內省), đã chép rõ: “Chu Văn An, tên tự là Linh Triệt, người huyện Thanh Trì. Tính cứng cỏi, thích thanh tao, tu chí không cần lợi danh hiển đạt”[32]. Nguyên văn chữ Hán như sau: 陳朱文安字靈澈青池縣人剛介清修不求利達[33].
Như vậy, không phải đến sau năm 1954 thì mới xuất hiện tên gọi Chu Văn An, mà ngay từ giữa thế kỷ XIX, Quốc sử quán triều Nguyễn – Cơ quan biên soạn Quốc sử lớn nhất Việt Nam trong thời đại quân chủ đã đưa ra tính danh Chu Văn An. Với phương thức làm việc cẩn thận, có tính khả tín trong việc chép sử của Quốc sử quán triều Nguyễn thì việc các sử thần xác minh được tính danh của Chu Văn An là có cơ sở đáng tin cậy. Cho nên theo thiển nghĩ, chúng ta cũng không nên băn khoăn gì, vẫn cứ tiếp tục sử dụng tính danh Chu Văn An như lâu nay vẫn thường được sử sách, dân gian mỗi khi viết, nói về Ông.
Về năm sinh của Chu Văn An, hiện cũng là một tồn nghi mà cần phải có giải đáp rõ ràng. Các bộ chính sử và tư sử đều mới chỉ chép chính xác về năm mất vào cuối năm 1370 mà chưa đưa ra năm sinh của ông[34]. Không biết căn cứ vào sử liệu nào, có sách lại chép ông sinh năm 1292 và mất năm 1370[35] . Theo thông tin “ở các xã Thanh Liệt và Tam Hiệp còn hai văn bản (đều là bản sao) Ngọc phả về Chu Văn An. Bản sao vào năm Nhâm Tuất, Khải Định năm thứ 8 (1922) chép Chu Văn An vào ngày 20 tháng Mười năm Nhâm Tuất. Bản sao tại đền Hùng do vị Tiên chỉ của xã Thanh Liệt là Phụng nghị Đại phu Vũ Văn Đức sao chép lại từ Đền Hùng (Phú Thọ) vào năm 1934 lại ghi ông sinh vào ngày 15 tháng 8 năm Nhâm Thìn, niên hiệu Trùng Hưng năm thứ 8 (1292)”[36]. Nhưng cần phải phân biệt rõ: “những bản Thần tích về Chu Văn An đều được soạn sau khi Chu Văn An qua đời đã mấy trăm năm”[37]. Do vậy, giới khoa học cũng cần tập trung đầu tư tìm hiểu nhằm trả lại năm sinh đích thực của Ông.
Một vấn đề nữa mà theo chúng tôi cũng cần phải tiếp tục đi sâu sưu tầm tư liệu, nghiên cứu để làm rõ là Chu Văn An có tham gia một kỳ thi Thái học sinh của đời Trần hay không? Các bộ chính sử và nhiều bộ sử của tư gia đều chép: Chu Văn An ngay từ nhỏ đã thông minh, mẫn tiệp, tự tìm sách vở, “chỉ ở nhà đọc sách” hay “ham thích đọc sách”[38] và rèn luyện phấn đấu để trở thành một người Thầy giáo có kiến thức phong phú, “học vấn tinh thông” lại cộng thêm đạo đức phẩm hạnh, kinh nghiệm ứng xử linh hoạt trong cuộc sống. Vì thế, ông nổi tiếng gần xa và được rất nhiều người kính phục, nể trọng, đông đảo học sinh quanh vùng Kinh thành và các tỉnh ở xa như vùng châu Hoan, châu Ái hay ở Kinh Bắc (Bắc Giang, Bắc Ninh) đều rủ nhau lều chõng đến thụ nghiệp.
Hồ Nguyên Trừng, tên tự là Nam Ông, con trai trưởng của Hồ Quý Ly, sinh ra sau Chu Văn An vài chục năm, khi bị quân Minh bắt sang Trung Quốc, trong thời gian nhàn rỗi có viết tác phẩm Nam Ông mộng lục (南翁夢錄, Ghi chép Giấc mơ của Nam Ông (hay cũng có thể dịch thành: Ghi chép về giấc mơ của ông già nước Nam). Tác giả họ Hồ lấy tiêu đề Văn Trinh ngạnh trực (文貞硬直, Văn Trinh, con người cứng cáp và ngay thẳng) để viết về Chu Văn An như sau: “Chu An tên hiệu là Tiều Ẩn, người ở vùng Thượng Phúc, đất Giao Chỉ, tính ông liêm khiết và cương trực. Ở nhà thường ham thích đọc sách, học vấn tinh thông, tiếng tăm lẫy lừng xa gần…Chu An là người điềm đạm, ít ham muốn, không đi thi”[39].
Hiện có hai tư liệu viết về việc Chu Văn An có đi thi đỗ Thái học sinh và Tiến sĩ: đó là tấm bia hiện được lưu giữ tại Văn chỉ Chu Văn An ở thôn Huỳnh Cung, xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, không có tiêu đề, chỉ có lạc khoản chép: Bia được dựng vào ngày lành tháng Trọng hạ (tháng Năm), năm Ất Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 (1765), triều Lê, cũng không ghi tên người soạn văn bia. Nội dung bia chép: “Tướng công họ Chu tự Văn An, người thôn Văn xã ta, đỗ Tiến sĩ triều nhà Trần, làm quan trải 4 triều vua”[40]. Tư liệu thứ hai là Bản Thần tích xã Thanh Liệt được sao lại từ Đền Hùng chép: “Tiên sinh 12 tuổi đỗ Thái học sinh, 16 tuổi thi Đình thí, 24 tuổi làm Gián quan”[41]. Giáo sư Trần Quốc Vượng sinh thời cho rằng tác giả soạn Thần tích đã lấy tiểu sử của Giới Hiên Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) để gán cho Chu Văn An. Giáo sư Trần Quốc Vượng còn nhấn mạnh: “Cho đến nay chưa có tài liệu nào thuyết phục được tôi là Chu An đậu Thái học sinh, nhưng không chịu làm quan. Tôi cho là ông tự học rồi làm Thầy đồ ở làng quê, dần nổi tiếng”[42].
Theo những tư liệu hiện có thì chưa có một sử liệu nào chép Chu Văn An có tham gia ứng thí và thi đỗ Thái học sinh hoặc Tiến sĩ đời Trần, nhưng không ra làm quan, trừ hai tài liệu mà chúng tôi vừa đề cập.
Tóm lại: Tư nghiệp Chu Văn An, vị đại thần đã hết lòng khuông phò triều Trần, tận tụy với sự nghiệp đào tạo nhân tài (bao gồm các vị vua khi còn trẻ tuổi và các môn sinh khắp nơi) trong thế kỷ XIV, bậc Sư biểu muôn đời của lịch sử giáo dục Việt Nam, với tính cách thanh cao, trong sạch, dám công khai dâng sớ để xử trảm bọn nịnh thần trong triều, đồng thời cũng không màng danh lợi, quyền lực rũ bỏ quan chức về vui thú điền viên, xứng đáng được hậu thế tôn vinh và kính mộ.
Xin được dừng bài viết ngắn tham gia Hội thảo về Danh nhân Chu Văn An, nhân chuẩn bị Kỉ niệm 650 năm ngày mất của ông (1370-2020) bằng nhận xét của Phan Huy Chú khi đưa Chu Văn An vào hạng nhà Nho có đức nghiệp “Ông Văn Trinh học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, được thời ấy suy tôn, thời sau ngưỡng mộ. Tìm trong làng Nho ở nước Việt ta, từ trước đến nay chỉ có mình ông, các ông khác thực không thể so sánh được”[43].
Tác giả: TS. Nguyễn Hữu Tâm – Viện Sử học
Trích Hội thảo khoa học “Danh nhân Chu Văn An – Con người và sự nghiệp”
[1] Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb.Khoa học xã hội, H, 1998, T.II, tr.151-153.
[2]Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, T.3 (Tái bản lần thứ hai), Nxb.Thuận Hóa, Huế, tr.246; Bia Cảnh Hưng (1765), Huyện Thanh Trì – Thành phố Hà Nội: Chu Văn An – Người thầy của muôn đời, Nxb. Chính trị Quốc gia-Sự thật, H, 2012, tr.197.
[3] Tiên hiền bi ký (Bia ghi chép các vị tiên hiền), Chu Văn An – Người thầy của muôn đời, Sđd, tr.198-199.
[4] Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, tr.153.
[5] Huyện Thanh Trì – Thành phố Hà Nội: Chu Văn An – Người thầy của muôn đời, Sđd, tr.68.
[6] Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, tr.153.
[7] Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb.Khoa học xã hội, H, 1997, tr.466.
[8] Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, Nxb.Văn hóa – Thông tin, H, 2007, tr.298.
[9] Viện Văn học, Thơ văn Lý -Trần, T.III, Nxb.Khoa học xã hội, H, 1978, tr.694-696.
[10] Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, tr.152; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, tr.465; Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, T.I, Sđd, tr.647-648.
[11] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, T.I, Sđd, tr.434; Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, T.3 (Tái bản lần thứ hai), Nxb.Thuận Hóa, Huế, 2006, tr.225. Đại Việt sử ký tiền biên, lại chép: “Trước nhà học có một cái đầm”, Sđd, tr.467,
[12]Huyện Thanh Trì – Thành phố Hà Nội: Chu Văn An – Người thầy của muôn đời, Sđd, tr.201-202.
[13] Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, tr.153: Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, tr.465.
[14] Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, tr.153.
[15] Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, tr.465; Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, T.I, Sđd, tr.150.
[16] Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, T.I, Nxb. Thế giới, H, 1997, tr.650-651.
[17] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, T.I, Sđd, tr.150.
[18] Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, tr.151-152.
[19] Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, T.I, Sđd, tr.647-648.
[20] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, T.I, Sđd, tr.434.
[21] Nguyễn Hữu Tâm, Chế độ tuyển chọn, đãi ngộ của triều đình phong kiến đối với Tế tửu, Tư nghiệp Quốc Tử giám Thăng Long, Kỷ yếu Hội thảo, Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội, Trung tâm hoạt động Văn hóa khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám, H, 2015.
[22] Huyện Thanh Trì – Thành phố Hà Nội: Chu Văn An – Người thầy của muôn đời, Sđd, tr.196-197.
[23] Huyện Thanh Trì – Thành phố Hà Nội: Chu Văn An – Người thầy của muôn đời, Sđd, tr.68.
[24]Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, tr.145-146.
[25] Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, tr.127.
[26] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, T.II, Nxb.Giáo dục, 2007, tr.386, 424; Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử, Nxb.Văn hóa – Thông tin, H, 2007, tr.130.
[27] Viện Văn học, Thơ văn Lý -Trần, T.III, Sđd, tr.52-66.
[28] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, T.II, Sđd, tr.426.
[29] Trần Quốc Vượng: Hà Nội như tôi hiểu, Nxb. Thời đại, H, 2009, tr.271.
[30] Thái Hà Diên Mậu Hoàng Cao Khải, Việt sử yếu, Nxb. Nghệ An, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, H, 2007, tr.238.
[31] Huyện Thanh Trì – Thành phố Hà Nội: Chu Văn An – Người thầy của muôn đời, Sđd, tr.46-47.
[32] Đại Nam nhất thống chí, Tỉnh Hà Nội, Nha Văn hóa, Tổng bộ Văn hóa xã hội, S, 1966, tr.77-78. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, T.3 (Tái bản lần thứ hai), có chép thêm ông là người xã Quang Liệt, Sđd, tr.256.
[33] 大南一統志, 河內省, 人物.
[34] Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, tr.151-153; Đại Việt sử ký tục biên, Sđd, tr.465; Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, T.Một, Nxb.Giáo dục, H, 1998, tr.647 – 648; Đặng Xuân Bảng: Việt sử cương mục tiết yếu, Nxb.Khoa học xã hội, H, 2000, tr.230-231…
[35] Đinh Xuân Lam – Trương Hữu Quýnh (Chủ biên), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, (tái bản lần thứ nhất có chỉnh lý, bổ sung), Nxb. Giáo dục, H, 2005, tr.11.
[36] Huyện Thanh Trì – Thành phố Hà Nội: Chu Văn An – Người thầy của muôn đời, Sđd, tr.47-49.
[37] Huyện Thanh Trì – Thành phố Hà Nội: Chu Văn An – Người thầy của muôn đời, Sđd, tr.48.
[38]Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, tr.152; Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, T.I, Sđd, tr.434; Viện Văn học, Thơ văn Lý -Trần, T.III, Sđd, tr.694-696.
[39] Viện Văn học, Thơ văn Lý -Trần, T.III, Sđd, tr.694-696.
[40] Bia Cảnh Hưng (1765), Huyện Thanh Trì – Thành phố Hà Nội: Chu Văn An – Người thầy của muôn đời, Sđd, tr.196-197.
[41] Huyện Thanh Trì – Thành phố Hà Nội: Chu Văn An – Người thầy của muôn đời, Sđd, tr.57.
[42] Trần Quốc Vượng: Hà Nội như tôi hiểu, Sđd, tr.240.
[43]Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, T.I, Nxb.Giáo dục, H, 2007, tr.435.
CHU VĂN AN - CUỘC ĐỜI VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP ĐỐI VỚI GIÁO DỤC
Chu Văn An là một nhà nho, người Thầy thời phong kiến, song những đóng góp của ông còn có nhiều giá trị cho các thế hệ mai sau của đất nước.
1. Thân thế và sự nghiệp của Chu Văn An (1292 - 1370)
Chu Văn An sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370) còn gọi là Chu An, Chu Văn Trinh, tự là Linh Triệt, hiệu là Tiểu Ẩn, người thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là Thanh Trì, Hà Nội. Ngay từ hồi còn trẻ, Chu Văn An đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách và dạy học.
Chu Văn An là danh nho, nhà tho, nhà giáo đời Trần. Thượng hoàng Trần Minh Tông đã mời ông làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám- một chức lãnh đạo ngôi trường cấp cao nhất nước ta. Có lẽ Chu Văn An là người duy nhất trong thời phong kiến nước ta, do việc tự học, tự dạy học mà được triều đình mời ra làm quan - chức quan trông coi việc Quốc học, Quốc giáo. Đến đời Trần Dụ Tông (1314 - 1368) thấy sự suy đồi, ông viết “Thất trảm sớ” xin vua chém 7 gian thần (là cận thần của nhà vua), nhưng không được chấp nhận, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ" từ quan về quê dạy học nhưng tâm can vẫn đau đáu ưu lo chính sự. Ít lâu sau, ông dời nhà đến ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, làng Kiệt Đặng, huyện Chí Linh (Hải Dương). Trần Nghệ Tông lên ngôi có mời ông ra giúp chính sự, ban chức tước nhưng ông chỉ về kinh chúc mừng, rồi quay về dạy học và làm thơ. Không lâu sau đó, ông ốm mất. Vua Nghệ Tông ban tặng tên thụy cho ông là Văn Tri, sai bề tôi đến tế lễ và cho được thờ ở Văn Miếu.
Trong sự nghiệp giáo dục, Chu Văn An là một nhà giáo chân nho. Ông viết bộ sách “Tứ thư thuyết ước” gồm 10 quyển đều đã bị thất lạc. Dù không giữ được tác phẩm nhưng những tư tưởng châm nho của ông đã được các học trò thấm nhuần và có ảnh hưởng lớn trong việc duy trì truyền thống đạo đức Việt Nam trong bối cảnh triều chính thối nát dưới thời Trần Dụ Tông. Trong hoạt động dạy học của mình Chu Văn An đã nỗ lực giảng giải học thuyết kinh điển của đạo Nho, tạo điều kiện cho lí thuyết Nho giáo của Khổng, Mạnh được dần dần độc tôn trước đạo Phật. Các đời vua sùng Nho sau này rất biết ơn thầy Chu Văn An. Về nhân cách nhà giáo, Chu Văn An là một người thầy uy nghi, mẫu mực, khiến lớp học trò phải kính nể, tôn phục. Những học trò đã làm quan to như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, nhưng làm điều sai sót, chưa ổn khi về thăm thầy vẫn bị thầy nghiêm khắc quát mắng.
Trong sự nghiệp văn chương, ông có viết: “Tiểu Ẩn thi tập” và “Quốc ngữ thi tập” nhưng đều không còn giữ được. Người đời sau chỉ còn ghi lại được 11 bài, trong đó có 2 câu được truyền tụng nhất vì thể hiện rõ nhất tư tưởng làm người của Chu Văn An:
Thân dữ cô vân trường luyến tụ
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.
Nghĩa là:
Đời như đám mây lẻ, ngừng mãi trong không gian
Lòng như giếng nước xưa, không bao giờ gợn sóng
Nhìn chung, hiện nay, không có đầy đủ tài liệu để biết một cách cụ thể về quan niệm học thuật và phương pháp giảng dạy, giáo dục của Chu Văn An. Nhưng các chi tiết về tiểu sử, thơ văn của ông đã lưu lại cho hậu thế về một tấm gương lẫm liệt, tiết tháo thanh cao của một vị tôn sư khẳng khái, về uy tín cao thượng để lại cho nhiều thế hệ học trò, được người đười mãi ngợi ca [Bùi Minh Hiền]. Khi ông ra phụ trách trường Quốc Tử Giám, Trần Nguyên Đán đã nói về ông: “Bể học xoay triều sóng, phong tục trở về thuần hậu, trường học lớn trong nước có vị thần như sao Bắc Đẩu, như núi Thái Sơn”. Còn Phan Huy Chú, nhà sử học lớn của Việt Nam đã ca ngợi “Làng nho nước Việt, trước sau chỉ có một ông, các người khác không ai so sánh được”.
Người dân nước ta đã bao đời đều tôn vinh Chu Văn An là “Vạn thế sư biểu” - Người thầy của muôn đời. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, để tưởng nhớ đạo đức và sự nghiệp của ông, nhân dân Thủ đô đã lấy tên ông để đặt tên cho một con đường phố và một ngôi trường Trung học lớn của Hà Nội. Năm 2000 Nhà nước đã tạc tượng ông để thờ tại nhà Thái học - Quốc Tử Giám (Hà Nội) nhằm khuyến khích và phát huy truyền thống văn hiến của dân tộc.
2. Vài nét khái quát về những đóng góp của Chu Văn An đối với nền giáo dục nước nhà
Thật không dễ để trình bày một cách đầy đủ và toàn diện của Chu Văn An đối với nền giáo dục nước nhà, tuy nhiên, chúng ta có thể khái quát một số đóng góp tiêu biểu của Ông dưới đây:
Quan niệm về đạo đức, uy tín và năng lực của người Thầy: Chu Văn An xác định, người Thầy luôn phải là tấm gương sáng về đạo đức, uy tín và tài năng. Suốt cuộc đời, ông cống hiến cho sự nghiệp giáo dục. Ông là một nhà sư phạm mẫu mực, suốt cuộc đời gắn bó, tận tụy với nghề dạy học, không ham công danh phú quý mà quên đi công việc “dạy chữ, dựng người”. Việc có nhiều đối tượng học trò đến xin học (tương truyền có tới hơn ba nghìn người) và trưởng thành dưới mái trường của ông đã thực sự chứng tỏ uy tín và đạo đức của ông. Uy tín ấy vượt ra khỏi cả sự lưu truyền trần thế, khiến cho vua Thủy Tề cũng phải gửi con theo học (theo truyền thuyết). Như thế, tư tưởng hành đạo, noi theo gương sáng của ông Tổ đạo Nho (Khổng Tử) “học không biết chán, dạy người không biết mỏi” (Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện) đã được Chu Văn An hiện thực hóa. Với việc mở trường tư thục dạy học, ông đã góp phần làm cho không khí học tập cuối thời Trần trở nên sôi nổi.
Chu Văn An đã dùng chính thực học và tài đức của mình mà ảnh hưởng tới nền giáo dục đương thời. Suốt cuộc đời của mình, ông đem sự nhiệt tình và tài năng của mình cống hiến cho đất nước. Việc ông không hề có tham vọng đem tài năng thi thố làm quan mà lại được mời ra làm một chức quan trông coi việc giáo dục cho triều đình đã thể hiện rõ tinh thần của Thánh hiền đạo Nho: “Không cầu người biết đến mình mà chỉ lo mình không có tài đức để người ta biết đến”.
Chu Văn An luôn xác định rõ nhiệm vụ của người Thầy. Ông dạy học trò là Tú Sĩ rằng: “Phàm học thành đạt cho mình là để thành đạt cho người, công đức tới dân, ân huệ để lại đời sau, đấy đều là phận sự của nhà Nho chúng ta”. Ở đây, có lẽ tư tưởng của Khổng Tử được Chu Văn An thể hiện một cách rõ ràng và mang tính tiến bộ vượt bậc khi ông coi nhiệm vụ của nhà Nho là phải “công đức tới dân, ân huệ để lại đời sau”.
Về nguyên tắc giáo dục: Chu Văn An luôn chủ trương giáo dục không phân biệt đối tượng. Thời nhà Trần đã có một số trường công do triều đình mở ra như Quốc Tử Giám, trường học ở Phủ Thiên Trường,… nhưng phần lớn các trường này là chỉ dành cho con em quý tộc. Chu Văn An đã mở trường tư thục Huỳnh Cung ở quê nhà để thu nhận học trò nghèo có ý chí trau dồi kinh sử để thi thố tài năng giúp nước. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần xa, học trò đầy cửa, thường có kẻ đỗ đại khoa, vào chính phủ”. Thực hiện tư tưởng “hữu giáo vô loại” của Khổng Tử, ông nhận dạy tất cả những người cầu học: Thái tử con vua (sau này làm vua); các học trò đỗ đạt cao, làm quan trong triều (như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh) và biết bao nhiêu học trò khác tuy không thành đạt được như vậy nhưng chí ít cũng thấm đẫm tư tưởng và tinh thần của ông mà đem ảnh hưởng đó tác động đến sự thay đổi của xã hội đương thời. Với tình cảm thương yêu học trò, không phân biệt đối xử, ông nhận được ở họ sự trân trọng, khâm phục và kính yêu. Khi ông mất, nhiều học trò làm nhà bên mộ ông để trọn tình nghĩa thầy trò.
Về nội dung giáo dục: Chu Văn An luôn hướng con người đến lễ nghĩa, nhân hậu và thanh cao. Ông chủ yếu truyền dạy tư tưởng Nho gia cho học trò. Việc ông giảng giải và viết “Tứ thư thuyết ước” đã chứng tỏ cho mục đích cao nhất của ông là “giáo kính, giáo trung, giáo văn”, nghĩa là dạy sự cung kính, dạy sự trung hậu, dạy sự văn nhã. Tuy có ảnh hưởng triết học Phật giáo và Lão giáo nhưng khuynh hướng Nho học ở ông là chủ đạo. Các học trò của ông đều thể hiện rõ tư tưởng “sùng Nho”, “bài Phật” (sùng bái đạo Nho, bài bác Đạo Phật).
Chu Văn An dẫn dắt học trò đi theo con đường hành đạo của một nhà nho chân chính: sống trong thời loạn lạc, dẫu có thất thế cũng không pha màu u uất, xa lánh trần tục một cách hoàn toàn mà vẫn cứng cỏi trụ vững ở đời, trái tim vẫn chung nhịp với thế cuộc bể dâu. Tuy ở ẩn nhưng “Tấc son nào đã như tro nguội/ Nghe nói Tiên hoàng giọt lệ sa”. Hành động ông trở về triều mừng vua Trần Nghệ Tông lên ngôi (sau sự biến Dương Nhật Lễ) đã thể hiện rõ quan điểm sống không xa rời những biến chuyển của lịch sử Triết lí giáo dục hành động của Chu Văn An còn được thể hiện rõ trong phương châm dạy học luôn gắn liền với thực tiễn đời sống của nhân dân. Ông dạy học trò phải biết kính yêu người dân lao động, có trách nhiệm chăm lo đến đời sống của họ. Tương truyền, trong khi dạy học ở trường Huỳnh Cung gặp phải năm trời đại hạn, Thầy Chu nói với một học trò (sau này ông mới biết là Thủy thần) đem tài năng cầu trời làm mưa để cứu dân. Người học trò ấy đã hi sinh thân mình vẩy mực lên trời cầu mưa cứu cho dân qua khỏi đại hạn đói khát. Tuy câu chuyện có tính chất huyền hoặc nhưng nó cũng cho chúng ta thấy sự lưu truyền về cách dạy học gắn với thực tế đời sống của tiên triết Chu Văn An.
Thêm vào đó, trên cơ sở coi trọng học trò, ông giáo dục cho học trò tinh thần dũng cảm, tiết tháo cao thượng, trừ hại giúp dân cứu nước, sẵn sàng hi sinh tính mạng của mình. Điều này thể hiện trong hành động dâng “Thất trảm sớ” của ông. Cho đến nay, không ai biết nội dung bản sớ đó ra sao, ông đòi vua phải chém đầu những tên quyền thần nào nhưng với hành động “Nghĩa động Càn Khôn, nghĩa động Quỷ thần” đó, Chu Văn An đã giáo dục học trò và người đời, cả nhà vua khi đó, một bài học: cần phải nghiêm khắc trừng trị những kẻ nịnh thần, gian tham hại dân hại nước. Chỉ ba chữ “Thất trảm sớ” đã làm cho người đời khâm phục, kính trọng ông và hành động theo ông để giữ tròn tiết tháo của một người có trách nhiệm với đất nước non sông. Theo nhận định của sử thần Ngô Sĩ Liên, tấm gương Chu văn An đã góp phần tích cực cải tạo đạo đức xã hội: “Hãy lấy Văn Trinh mà nói, thờ vua tất thẳng thắn can ngăn, xuất xử thì làm theo nghĩa lí, đào tạo nhân tài thì công khanh đều ở cửa ông mà ra, tiết tháo cao thượng thì thiên tử cũng không thể bắt làm tôi được. Huống chi tư thế đường hoàng mà đạo làm thầy được nghiêm, giọng nói lẫm liệt mà bọn nịnh hót phải sợ. Ngàn năm về sau, nghe phong độ của ông, há không làm cho kẻ điêu ngoa thành liêm chính, người yếu hèn biết tự lập được hay sao? Nếu không tìm hiểu nguyên cớ, thì ai biết thụy hiệu của ông xứng đáng với con người của ông. Ông thực đáng được coi là ông tổ của các nhà nho nước Việt ta mà thờ vào Văn Miếu”.
Về phương pháp giáo dục: Chu Văn An luôn đề cao sự nghiêm khắc trong giáo dục thế hệ trẻ. Sự nghiêm khắc trước tiên phải đến từ những người Thầy. Ông khẳng định: “làm Thầy phải nghiêm”. Sách “Tam tự kinh” - loại sách “khai tâm” của học trò xưa có câu: “Giáo bất nghiêm, sư chi nọa” (Dạy không nghiêm, đạo thầy hỏng). Nghiêm không phải là dữ đòn để cho học trò sợ, mà đối với Chu Văn An, “nghiêm” là thái độ nghiêm trang, mẫu mực trong giáo dục, là việc giảng dạy chặt chẽ, có quy củ, kỷ cương. Đại Việt sử kí toàn thư viết: “Kẻ nào xấu thì ông nghiêm khắc trách mắng, thậm chí la hét không cho vào. Ông là người trong sạch, thẳng thắn, nghiêm nghị, lẫm liệt đáng sợ đến như vậy đấy”. Sự nghiêm nghị, tiết tháo, thanh cao của ông đã thực sự là tấm gương lẫm liệt tỏa sáng cho học trò noi theo. Ảnh hưởng từ tấm gương thực tiễn của ông đối với trí thức đương thời là rất lớn.
Về vấn đề biên soạn tài liệu dạy học: Chu Văn An luôn quan tâm đến việc biên soạn tài liệu để giúp cho người học có được tài liệu học tập. Đây là một điểm mới trong cách quan niệm về nội dung và phương pháp giáo dục của ông. Không chỉ chú trọng nội dung giáo dục về đạo làm người theo tinh thần Nho gia (ông viết “Tứ thư thuyết ước” - đã thất lạc - và có lẽ đây là bộ sách đầu tiên luận giải về Nho giáo một cách có hệ thống) mà Chu Văn An còn biên soạn cả những tài liệu về y học trị bệnh cứu người - “Y học yếu giải tập chu di biên”. Ông cũng viết hai tập thơ “Quốc ngữ thi tập” và “Tiều ẩn thi tập” để bồi bổ thêm tinh thần và kiến thức sâu rộng, toàn diện cho học trò. Việc Chu Văn An viết sách không chỉ đơn giản là để làm tài liệu học tập mà cao hơn cả là qua đó, để gìn giữ và khuếch trương di sản văn hóa của dân tộc (dùng chữ Nôm), khẳng định sự độc lập về văn tự đối với nền văn hóa Hán. Cũng trong các tác phẩm ấy, để thể hiện rõ tính chất dân tộc trong văn hóa, thi ca, ông không hề vay mượn những điển tích ngoại lai mà chỉ miêu tả những gì hiện thực trước mắt, những cảnh đẹp thiên nhiên và con người Đại Việt. Đây là phong cách đặc biệt trong các nhà nho thời Trần mà đi đầu là nhà sư phạm mẫu mực Chu Văn An.
Như vậy có thể nói rằng, Chu Văn An đã để lại cho hậu thế rất nhiều kinh nghiệm giáo dục cho thế hệ trẻ. Những kinh nghiệm giáo dục của Chu Văn An được vận dụng mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực qua đó càng khẳng định những đóng góp to lớn của ông đối với sự nghiệp giáo dục nước nhà suốt theo chiều dài lịch sử.
Tác giả: PGS. TS. Dương Hải Hưng- TS. Mai Quốc Khánh
(Trường Đại học Sư phạm Hà Nội )
Trích Hội thảo khoa học “Danh nhân Chu Văn An – Con người và sự nghiệp”
Tài liệu tham khảo
1. Bùi Hiền (Chủ biên) (2001), Từ điển Giáo dục học, NXB Từ điển Bách Khoa.
2. Bùi Minh Hiền (2004), Lịch sử giáo dục Việt Nam, NXB Đại hoc Sư phạm, Hà Nội.
3. http://trunghocchuvanan.edu.vn/vn/School/?ID=166
CÁC HÌNH THỨC TÔN VINH DANH NHÂN CHU VĂN AN
Danh sư Chu Văn An (1292 – 1370), tự Linh Triệt, hiệu Tiều Ẩn, tước Văn Trinh, thụy Khang Tiết. Ông quê làng Quang Liệt sau đổi là Thanh Liệt huyện Long Đàm, nay thuộc Thanh Trì, Hà Nội. Cuộc đời và sự nghiệp của Chu Văn An hơn 600 năm qua có ảnh hưởng sâu sắc đến nhân sinh quan của lớp lớp thế hế người Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp tri thức. Trong dòng chảy văn hóa dân tộc tấm gương danh nhân Chu Văn An trở thành niềm tự hào cho truyền thống tôn sư trọng đạo, hiếu học, hiếu nghĩa của dân tộc Việt Nam.
- Danh sư Chu Văn An.
Trong cuốn Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm của cố Giáo sư Trần Quốc Vượng cho biết: "người thì bảo thần tích Huỳnh Cung ghi cha là Chu (Văn) Hưng mẹ là Trần Thị Phượng, người thì dựa vào bản sao thần tích xã Thanh Liệt trên Đền Hùng năm Giáp Tuất Bảo Đại thứ 9 (1934) của Vũ Duy Đức bảo: ông bố họ Chu, húy Thiện người "Quảng Đức Bắc quốc", giỏi phong thủy, qua Quang Liệt, thôn Văn, lấy bà Lê Thị Chiêm sinh con trai là Văn An và Rằm tháng Tám (ngày 25) năm Nhâm Thìn (1292)"[1]. Như vậy, Thanh Liệt là quê ngoại của Chu Văn An. Tuổi thơ của ông gắn liền với Thanh Đàm vùng ven đô xưa.
Từ khi còn nhỏ Chu Văn An là người thông minh, hiếu học, học vấn tinh túy và uyên thâm. Ông là người không cầu danh lợi, bình dị thanh liêm, tiết tháo cương trực. Ông học giỏi, đỗ cao nhưng không ra làm quan mà về quê mở trường dạy học "ông dựng nhà học lớn giữa đầm để dạy học trò, xa gần nghe tiếng đến học rất đông, thường có người làm chức cao trong chính phủ"[2], trong số đó có nhiều người đỗ đạt cao giữ những chức trọng yếu trong triều như Lê Quát và Phạm Sư Mạnh làm đến chức Nhập nội hành khiển Học trò rất tin yêu và kính trọng, khi đến thăm thầy đều muốn được gặp thầy nghe lời dặn dò, khuyên nhủ, nếu học trò nào kiêu ngạo, sách nhiễu dân lành, hà hiếp dân chúng thì ông đuổi ra khỏi nhà không công nhận là học trò nữa.
Vì tài năng và đạo đức vua Trần Minh Tông (1314-1329) mời Chu Văn An ra kinh thành Thăng Long giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám giúp vua rèn luyện nhân tài, dạy dỗ Hoàng thái tử Trần Vượng (sau này là vua Trần Hiến Tông). Đến thời vua Trần Dụ Tông (1358 -1369), vua ham mê chơi bời, xao lãng chính sự, bọn quyền thần làm nhiều sự trái phép, đất nước rơi vào cảnh rối ren, loạn lạc, bị gian thần lộng hành. Trước cảnh đất nước lâm nguy, Chu Văn An dâng "thất trảm sớ" khuyên vua chém bảy tên gian thần lộng hành. Vua không đủ cản đảm nghe theo, Chu Văn An từ quan về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương) không ra làm quan nữa.
Trong các sách chính sử viết về danh nhân Chu Văn An, mặc dù chưa nhiều nhưng đã toát lên, nhân cách, tài năng và khí phách của một con người quyền uy và danh vọng không hề khuất phục. Trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư có chép vào năm Kỷ Dậu (1369). “Chu An đi rồi, không còn ai bảo vua lẽ phải nữa. Đó thực là không tin bậc nhân hiền thì nước trống rỗng như không có người vậy”[3]. Đến năm Canh Tuất (1370) “Quốc Tử Giám Tư Nghiệp Chu An mất, được truy tặng tước Văn Trinh công, ban cho tòng tự ở Văn Miếu. An (người Thanh Đàm), tính cương nghị thẳng thắn, sửa mình trong sạch, bền giữ tiết tháo, không cầu lợi lộc. Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần xa, học trò đầy cửa, thường có kẻ đại kho, vào chính phủ như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát đã làm hành khiển mà vẫn giữ lễ học trò, khi đến thăm thầy thì lạy hỏi ở dưới giường, được nói chuyện với thầy vài câu rồi đi xa thì lấy làm mừng lắm. Kẻ nào xấu thì ông nghiêm khắc trách mắng, thậm chí la hét không cho vào. Ông là người trong sạch, thẳng thắn, nghiêm nghị, lẫm liệt đáng sợ đến như vậy đấy. Minh Tông mời ông làm Quốc Tử giám Tư nghiệp, dạy thái tử học. Dụ Tông ham chơi bời luời chính sự, quyền thần nhiều kẻ làm trái phép nước, An khuyên can, [Dụ Tông] không nghe, bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, đều là trả lời, ông liền treo mũ về quê. Ông thích núi Chí Linh, bèn đến ở đấy. Khi nào có triều hội lớn thì đến kinh sư. Dụ Tông đem chính sự trao cho ông, ông từ chối không nhận… Vua sai nội thần đem quần áo ban cho ông. Ông lạy tạ xong, liền đem cho người khác hết. Thiên hạ đều cho là bậc cao thượng. Đến khi Dụ Tông băng, quốc thống suýt mất, nghe tin các quan đến lập vua, ông mừng lắm. Chống gậy đến xin bái yết, xong lại xin trở về quê, từ chối không nhận chức gì. Vua sai quân đến tế, ban tặng tên thụy, ít lâu sau có lệnh cho tòng tự ở Văn Miếu. Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Người hiền được dùng ở đời, thường lo người làm vua không thi hành những điều sở học của mình. Người làm vua sử dụng người hiền thường lo người hiền không theo ý muốn của mình. Cho nên, vua (sáng), tôi (hiền) gặp nhau từ xưa vẫn là khó. Những nhà nho nước Việt ta được dùng ở đời không nhiều, nhưng kẻ thì chỉ nghĩ đến công danh, kẻ thì chuyên lo về phú quý, kẻ lại a dua với đời, kẻ chỉ cốt ăn lộc giữ thân, chưa có ai chịu để tâm đến đạo đức, suy nghĩ tới việc giúp vua nêu đức tốt, cho dân được nhờ ơn. Như Tô Hiến Thành đời Lý, Chu Văn Trinh đời Trần, có lẽ gần được như thế. Nhưng Hiến Thành gặp được vua (sáng suốt) cho nên công danh, sự nghiệp được thấy ngay đương thời. Văn Trinh không gặp vua (anh minh) nên chính học của ông, đời sau mới thấy được. Hãy lấy Văn Trinh mà nói, thờ vua tất thẳng thắn can ngăn, xuất xử thì làm theo nghĩa lý, đào tạo nhân tài thì công khanh đều ở cửa ông mà ra, tiết tháo cao thượng thì thiên tử cũng không thể bắt làm tôi được. Huống chi tư thế đường hoàng mà đạo làm thầy được nghiêng, giọng nói lẫm liệt mà bọn nịnh hót phải sợ. Ngàn năm về sau, nghe phong độ của ông, há không làm cho kẻ điêu ngoa thành liêm chính, người yếu hèn biết tự lập được hay sao? Nếu không tìm hiểu nguyên cớ, thì ai biết thụy hiệu của ông xứng đáng với con người của ông. Ông thực đáng được coi là ông tổ của các nhà nho nước Việt ta mà thờ vào Văn Miếu"[4].
Cả cuộc đời của mình Chu Văn An cống hiến cho sự nghiệp trồng người của đất nước. Tại quê nhà ông mở trường Huỳnh Cung, ra kinh đô ông giữ chức Tư Nghiệp Quốc Tử Giám trong gần 30 năm, về Chí Linh ông cũng gắn với việc dạy người, cứu người. Lời bàn của sử gia Ngô Sĩ Liên đã khẳng định Chu Văn An là "Vạn thế sư biểu – Người thầy tiểu biểu của muôn đời" của dân tộc Việt Nam. Nhân cách và tài năng của ông không chỉ là điển hình của thế hệ mà còn có tầm ảnh hưởng lớn đối cộng đồng ở đương thời và hậu thế
- Các hình thức tôn vinh Danh nhân Chu Văn An.
Tầm ảnh hưởng của danh nhân Chu Văn An từ lúc đương thời cho đến hiện nay, không chỉ triều đình tri ân thờ tự ông mà nhân dân khắp bốn phương cũng bày tỏ lòng thành kính với ông qua rất nhiều hình thức khác nhau: trở thành đối tượng thờ ở các di tích; tế lễ và lễ hội tổ chức để tri ân; đặt tên cho đường phố, trường học và làm tượng, dựng phim về Chu Văn An.
2.1. Các di tích thờ Chu Văn An
Mật độ các di tích thờ danh nhân Chu Văn An tập trung chủ yếu ở Hà Nội là 6/12 di tích. Vì ở đây có làng Thanh Đàm xưa, có kinh đô Thăng Long gắn liền với cuộc đời làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám của ông. Năm 1370, sau khi Chu Văn An qua đời, ông được nhà Trần đưa vào tòng tự ở Văn Miếu. Trải qua hơn 600 năm, biết bao biến động của lịch sử và thời cuộc ông vẫn là danh nhân được thờ trong Di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Trước đây ông được phối hưởng ở khu Điện Đại Thành, sau khi khu Thái Học hoàn thành, năm 2013 danh nhân Chu Văn An được đúc tượng đồng và thờ long lọng tại tầng 1 Hậu đường của khu Thái Học.
Tại huyện Thanh Trì danh nhân Chu Văn An được thờ chủ yếu ở xã Thanh Liệt và xã Tam Hiệp. Xã Thanh Liệt có 02 di tích thờ Chu Văn An đền Chu Văn An và miếu Thổ Kỳ thờ Chu Văn An và thân mẫu. Xã Tam Hiệp cũng có 02 di tích thờ Chu Văn An là chùa Huỳnh Cung và đình Huỳnh Cung gồm cụm di tích Đình Huỳnh Cung thờ Chu Văn An là một trong những vị thành hoàng làng và đền Huỳnh Cung xây trên nền ngôi trường xưa kia mà thầy mở ra để dạy dỗ học trò. Bên cạnh huyện Thanh Trì ở Hà Nội còn có chùa Hương Viên nằm trên đường Trần Xuân Soạn, quận Hai Bà Trưng có phối thờ Chu Văn An. Ngoài Hà Nội còn có các địa phương khác trong cả nước có các di tích thờ Chu Văn An.
Hải Dương là vùng đất nổi tiếng khoa bảng của xứ Đông. Văn Miếu Mao Điền nằm gần Quốc lộ 5, xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương là nơi nêu cao truyền thống hiếu học tôn trọng nhân tài của vùng đất. Nơi đây thờ các danh nhân nổi tiếng gắn bó với đất này bao gồm: Tuệ Tĩnh, Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trãi, Vũ Hữu, Nguyễn Thị Duệ, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hải Dương còn có núi Phượng Hoàng (Chí Linh) được danh sư Chu Văn An chọn là nơi ẩn cư khi không làm quan nữa. Đây là nơi nổi tiếng sơn thủy hữu tình tựa như Côn Sơn gần đó. Sau khi về ở ẩn tại núi Chí Linh, Chu Văn An chuyên tâm vào dạy dỗ học trò, bốc thuốc chữa bệnh cho dân nghèo, không màng danh lợi "khi có triều hội lớn mới đến kinh sư". Ông ở tại Chí Linh cho đến khi qua đời, phần mộ của ông cũng cách đền thờ không xa. Quần thể di tích đền thờ Chu Văn An tại núi Chí Linh trở thành một trong những địa điểm tâm linh thờ thầy giáo Chu Văn An được các thế hệ học trò thường xuyên thăm viếng.
Để khuyến khích nhân tài và nêu cao đạo học danh nhân Chu Văn An đã được thờ tại 03 di tích của tỉnh Hưng Yên. Văn Miếu Xích Đằng thuộc phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên thờ Khổng Tử, Chu Văn An và các nhà khoa bảng địa phương. Bên cạnh Văn Miếu Xích Đằng ở Hưng Yên còn có 02 Văn chỉ thờ Chu Văn An đó là Văn chỉ Hoàng Cả tại thị trấn Ân Thi và Từ chỉ Bình Hồ thuộc xã Quảng Lãng, huyện Ân Thi. Các di tích này tôn vinh các bậc tiên hiền, tiên nho, danh nhân khoa bảng người địa phương và danh nhân Chu Văn An. Tại các di tích này, người dân có thể gửi gắm niềm tin và mong ước con cháu của mình có thể vươn lên bằng con đường tri thức.
Có một số địa phương mới khởi dựng lại Văn Miếu những năm gần đây đã chọn danh nhân Chu Văn An là một trong những nhân vật thờ tự ở đó như: Văn Miếu Vĩnh Phúc khởi dựng lại năm 2011 tại khu Đô thị Hà Tiên, phường Liên Bão, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Văn Miếu Trấn Biên khởi dựng năm 2002 tại khu Bửu Long, thành phố Biên Hòa,tỉnh Đồng Nai. Mặc dù mới khởi dựng lại nhưng những di tích này cũng thu hút rất nhiều các trường học các cấp trong khu vực đến thăm quan và tìm hiểu. Qua đó các thế hệ học trò lại hiểu sâu hơn về thầy giáo Chu Văn An- một người thầy đạo cao, đức trọng của dân tộc.
2.2.Tế lễ và Lễ hội tri ân Danh nhân Chu Văn An
Trước đây, tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám vào ngày Đinh tháng hai và tháng tám (âm lịch) triều đình tổ chức tế lễ các bậc tiên thánh, tiên hiền, nghi thức vô cùng long trọng. Danh nhân Chu Văn An được phối thờ nên được phối hưởng các nghi thức và lễ tiết này. Ngày nay Di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám là địa chỉ tin cậy để các công ty lữ hành, các trường học tổ chức dâng hương các danh nhân và làm lễ khuyến học để truyền lại tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo bao đời nay của cha ông ta.
Đền thờ Chu Văn An ở xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội dưới thời Nguyễn triều đình đã quan tâm và có quy định về việc tế lễ Chu Văn An "Đời Gia Long cấp cho dân phu để giữ đền; năm Tự Đức 3 (1850) phong làm Thượng đẳng thần, hàng năm cứ mùa xuân, mùa thu, văn thân trong huyện họp để tế"[5]. Ngày nay tại di tích vào các dịp đầu Xuân sẽ có lễ khai bút được tổ chức rất long trọng là sự nối tiếp truyền thống hiếu học, thể hiện tấm lòng thành kính, truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, lòng ngưỡng mộ của người dân quê hương ông đối với Chu Văn An cũng như các bậc hiền tài của đất nước. Lễ khai bút do Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội phối hợp cùng huyện Thanh Trì tổ chức. Lãnh đạo thành phố Hà Nội cùng đông đảo nhân dân và các cháu học sinh đã tham dự lễ khai bút. Trước khi khai bút là lễ dâng hương tri ân danh nhân Chu Văn An, đồng thời báo cáo thành tích năm học vừa qua của ngành giáo dục và đào tạo Hà Nội. Sau đó các chữ ý nghĩa thể hiện mong ước của toàn Đảng toàn dân sẽ được các thư pháp gia thể hiện, như năm 2018 có 4 chữ Hán được khai bút là: Quốc, Phú, Dân, Cường thể hiện niềm tin vào sự lớn mạnh, hưng thịnh của quốc gia, dân tộc. Việc tổ chức lễ khai bút đầu Xuân tại đền thờ Chu Văn An rất có ý nghĩa đối với ngành giáo dục và đào tạo Thủ đô và huyện Thanh Trì, là dịp được tri ân, bày tỏ lòng kính trọng tới người đã có công lao trong việc phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài cho đất nước.
Lễ hội tại đình Huỳnh Cung thuộc xã Tam Hiệp huyện Thanh Trì được dân làng được tổ chức hàng năm trong vòng 4 ngày của tháng Giêng để tôn vinh Thành hoàng làng và danh nhân Chu Văn An. Bắt đầu vào ngày 18 buổi sáng chuẩn bị đội ngũ bao sái tượng và đồ lễ trong đình. Buổi chiều, các bô lão đã tề tựu trước cửa ở sân đình trong trang phục quần áo tế lễ cổ truyền để tễ tế. Sang ngày 19 dành cho các tổ chức, dòng họ, gia đình, nhân dân khắp vùng dâng lễ. Chiều và tối, biểu diễn văn nghệ truyền thống tại sân đình. Ngày 20 là ngày hội chính sẽ có tiết mục tuyên dương các học sinh giỏi cấp huyện và thành phố, các gia đình có người đỗ đạt cao giúp ích được cho đất nước, làng xã. Sau đó là màn rước kiệu, dâng hương danh nhân Chu Văn An. Màn rước kiệu từ đình đến chùa được tổ chức hoành tráng với sự tham gia đông đảo của dân làng. Ngày cuối cùng của lễ hội là ngày 21 làm lễ tạ tại đình và dã hội. Lễ hội làng Huỳnh Cung được tổ chức khá lớn, diễn ra tưng bừng, trong không khí trang nghiêm thành kính của dân làng và nhân dân các vùng phụ cận. Lễ hội thể hiện niềm tin, ước vọng của dân làng gửi gắm tới thành hoàng của làng mong một năm có nhiều điều tốt đẹp.
Đền thờ Chu Văn An tại núi Phượng Hoàng thời phong kiến tổ chức tế lễ rất giản dị. Hàng năm, xuân thu nhị kỳ, các vị quan lại địa phương có đến thắp hương thầy nhưng chỉ trong phạm vi nhỏ hẹp. Hiện nay khu di tích là địa chỉ các trường học trong toàn quốc đăng ký hưởng ứng phong trào "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Liên ngành Bộ Giáo Dục - Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Trung ương Đoàn phát động. Lễ hội hàng năm diễn ra vào tháng Giêng (06/01 âm lịch) với tên gọi “Lễ khai bút đầu năm” và tháng 11 (26/11 âm lịch) là “Lễ hội về nguồn”. Lễ hội diễn ra với đầy đủ các nghi thức dâng hương, tưởng niệm, lễ tế, lễ rước, các trò chơi dân gian, các trường học mọi cấp học trên cả nước còn về đây tổ chức hội trại, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thắp hương báo công với danh nhân Chu Văn An.
Tại đền thờ Chu Văn An, ngày hội có quy mô lớn và tổ chức long trọng bắt đầu từ năm Đinh Sửu (1997). Vào dịp lễ khánh thành trùng tu bước I của đền thờ ngày 12 tháng 8, rất nhiều nhà giáo, học sinh và nhân dân địa phương tham gia. Trong ngày hội này có hàng nghìn giáo viên và học sinh của Chí Linh và của Trường Chu Văn An (Hà Nội) đến cắm trại từ điện Lưu Quang đến lăng mộ của ông. Các em tổ chức cắm trại, vui chơi ca hát, chơi trò chơi dân gian, tìm hiểu di tích trong hai ngày. Đây là khởi đầu đầy ý nghĩa cho các hoạt động lễ hội những năm sau được tổ chức tại đây.
Lễ hội về nguồn là lễ hội của thầy và trò nhớ về cội nguồn của đạo học để tri ân danh nhân Chu Văn An, một loại hình lễ hội mới được hình thành tại khu di tích. Vào Năm Kỷ Mão (1999), đúng vào dịp kỷ niệm 707 năm ngày sinh của danh nhân Chu Văn An ngày 25 tháng 8, tại khu di tích đã làm lễ khánh thành điện Lưu Quang và lễ đón nhận bằng công nhân di tích cấp quốc gia. Tham gia lễ hội ngoài giáo viên, học sinh và nhân dân huyện Chí Linh còn có đại diện giáo viên các huyện thị, đại biểu của Bộ Văn hoá, Giáo dục, trường Chu Văn An (Hà Nội) và đoàn đại biểu của huyện Thanh Trì. Đến năm 2008 cũng là lễ hội về nguồn nhân kỷ niệm 608 năm ngày nhà giáo qua đời ngày 25 và 26 tháng 11 đã thu hút ngót một vạn giáo viên, học sinh các trường tham dự trong hai ngày. Hai ngày đó, giáo viên, học sinh ôn lại lịch sử giáo dục nước nhà, lịch sử khu di tích với sự nghiệp của thầy Chu Văn An, biểu diễn văn nghệ, vui chơi các trò chơi dân gian… Các lễ hội đã giúp các em học sinh thêm hiểu và yêu lịch sử văn hóa nước nhà, thêm gắn kết thầy cô, bè bạn.
Từ một phế tích đã mai một qua nhiều năm, nay trở thành nơi thăm quan, nghiên cứu, du lịch hấp dẫn của giáo viên và học sinh cả nước, góp phần tích cực vào việc giáo dục thế hệ trẻ. Di tích cũng trở thành địa chỉ để nhân dân khắp mọi nơi đến thăm và viếng đền thờ và mộ thầy giáo Chu Văn An.
2.3. Đặt tên danh nhân Chu Văn An cho tên đường, phố và trường học.
Tại Điều 7 Chương II Quy chế đặt tên đường phố trên địa bàn Thành phố Hà Nội năm 2006 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội có quy định:
Tên danh nhân bao gồm cả danh nhân nước ngoài được chọn đặt tên đường, phố và công trình công cộng ở Hà Nội phải là người tiêu biểu trong những người nổi tiếng có đức, có tài, có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc và Thành phố hoặc có đóng góp đặc biệt cho đất nước, có công lớn trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, được nhân dân suy tôn và thừa nhận.
Danh nhân thuộc các lĩnh vực này được chọn đặt tên phải là người mất trước thời điểm xét đặt tên đường, phố ít nhất 10 năm (trừ những trường hợp đặc biệt)
Những danh nhân còn có ý kiến đánh giá khác nhau hoặc chưa rõ ràng về mặt lịch sử thì chưa xem xét đặt tên đường, phố và công trình công cộng. Không đặt tên đường, phố, công trình công cộng bằng các tên gọi khác nhau của cùng một danh nhân trên cùng một địa bàn đô thị.
Xét công lao và tầm ảnh hưởng của danh nhân Chu Văn An đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo nhân tài của đất nước ông hoàn toàn xứng đáng để được chọn đặt tên cho đường, phố và các công trình công cộng khác. Theo thống kê hiện nay không chỉ Hà Nội mà rất nhiều địa phương khác đã lựa chọn tên danh nhân Chu Văn An đặt tên cho đường phố và các trường học trên địa bàn của mình.
Hiện tại có tới 22/64 tỉnh, thành phố từ Bắc vào Nam có đường, phố mang tên của ông gồm: Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Lào Cai, Thái Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa. Trong số 22 tỉnh, thành phố có tên danh nhân Chu Văn An có 09 phố, 23 đường, 01 hẻm.
Bên cạnh đường, phố có tên danh nhân Chu Văn An, còn có rất nhiều trường học ở các cấp mang tên danh nhân Chu Văn An. Trong cả nước có 50 trường học mang tên Chu Văn An gồm: 10 trường Tiểu học, 19 trường Trung học Cơ sở, 17 trường Trung học phổ thông, 03 trường Liên cấp và 01 trường Đại học.
Trong số các trường học này có ngôi trường phổ thông đặc biệt lâu đời tại Hà Nội là trường Trung học phổ thông Chu Văn An. Trường do người Pháp xây dựng năm 1908 mang tên là Trường Trung học bảo hộ nhằm đào tạo nhân viên cho bộ máy cai trị Bắc Kỳ, học sinh ngày ấy vẫn quen gọi là Trường Bưởi. Năm 1945, trường đổi tên là Quốc lập Trung học hiệu Chu Văn An. Đến Ngày 17 tháng 2 năm 1995, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ra quyết định xây dựng trường Trung học phổ thông Chu Văn An trở thành một trong 3 trường trung học phổ thông trọng điểm quốc gia của Việt Nam. Đây là cơ sở đào tạo cấp phổ thông trung học có chất lượng cao ở Hà Nội và Việt Nam.
2.4. Đúc tượng và dựng phim danh nhân Chu Văn An.
Một trong những hình thức tri ân, tưởng nhớ của các thế hệ sau đối với danh nhân Chu Văn An là hình thức làm tượng thờ. Hiện nay có 3 nơi có dựng hoặc đúc tượng Chu Văn An là: Di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Trường Trung học phổ thông Chu Văn An – Hà Nội, Văn Miếu Trấn Biên – Đồng Nai. Tượng của Chu Văn An tại Trường Trung học phổ thông Chu Văn An và Văn Miếu Trấn Biên đều được dựng trong khuôn viên của trường và di tích là tượng mang tính chất tượng tưởng niệm danh nhân.
mày đang chau vì phản ánh ông vẫn còn đang đau đáu vì thời cuộc. Vầng trán cao rộng, hình lá gan úp thể hiện của người tư duy trực cảm mạnh mẽ. Mắt sâu, đang lim dim, gò má cao của người suy nghĩ sâu sắc. Mũi giọt mật của bậc văn sĩ, hiền sĩ, thông thái và thông minh. Dái tai đều đặn, thùy tai đẫy đà, vành tai thành quách rõ ràng biểu hiện của người quân tử. Dáng người mình mai cốt hạc, áo cổ cao, cổ chéo, mặc rộng theo phong cách Thương Chu. Áo của Chu Văn An nhiều nếp gấp, không trang trí hoa văn của người có khí tiết thanh tao và gần gũi với đời thường vì ông là nhà nho sống rất giản dị, thanh liêm, đeo đai ngọc. Tay búp măng, tay phải cầm quạt đặt trên đầu gối vì Việt Nam khí hậu nóng ẩm, tay trái để trên đầu gối, toát lên khí thế của bậc trượng phu, quân tử. Quần mặc theo kiểu xiêm, chân đi giầy vải. Chu Văn An ngồi trên ghế đầu vẹt (hai bên đầu ghế có đầu vẹt), lấy mẫu từ ghế gỗ duy nhất thời Trần còn đến ngày nay ở khu vực chùa Thầy (Hà Nội). Phía sau lưng ghế có chạm trổ hình cây vũ trụ tỏa ra các tia sáng biểu tượng cho âm dương hài hòa và sự sinh sôi phát triển. Đứng trước Chu Văn An sẽ cho ta cảm giác đứng trước một con người đầy trí tuệ vừa uy nghiêm vừa gần gũi.
Các hình thức tôn vinh danh nhân Chu Văn An hơn 600 năm qua đã chứng minh sự ảnh hưởng của ông đã tác động sâu sắc tới mọi tầng lớp nhân dân. Cuộc đời và sự nghiệp của Chu Văn An đã trở thành những giá trị tinh thần vô cùng quý giá của nền văn hóa dân tộc. Trong quá trình bảo tồn và phát huy bản sắc của nền văn hóa Việt Nam, những giá trị tinh thần ấy sẽ trở thành những nhân tố vô cùng quan trọng. Khi nói tới danh nhân Chu Văn An, mỗi người dân Việt Nam đều cảm thấy tự hào và trân quý một con người có tài năng và nhân cách vượt tầm thời đại.
- Tác giả NTM
- Trích Hội thảo khoa học “Danh nhân Chu Văn An – Con người và sự nghiệp”
[1] Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn hóa dân tộc, 2000, tr. 726.
[2] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1. Nxb Giáo dục. 2007. Tr 434.
[3]Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, 1993, tập 2, Tr 145-146.
[4]Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, 1993, tập 2, tr 151-152.
[5] Đại Nam nhất thống chí , tập 3, Nxb Thuận Hóa, 2006, tr .246.
PHÚC THẦN CHU VĂN AN TRONG TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN
Từ Phúc thần được bộ Từ điển tiếng Việt do Giáo sư Hoàng Phê làm chủ biên, xếp vào mục danh từ và giải thích: “Thần chuyên làm những điều tốt lành (thường là người có công đức đã chết đi, được nhân dân tôn thờ) được dân làng thờ làm Phúc thần”.
Quả đúng như vậy, tìm lại các tư liệu lịch sử, chúng ta có thể thấy các vị Phúc thần được nhân dân tôn thờ đều là những người con ưu tú của dân tộc sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ đất nước, bảo vệ cuộc sống của người dân, như đời Trần có Phúc thần Trần Bình Trọng thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc, có Phúc thần Lê Lai đã biết liều mình cứu chúa, có Phúc thần Hoàng Diệu tử tiết với thành Hà Nội…Chúng ta lại có thể tìm thấy các vị Phúc thần có công mở mang đạo học tăng trưởng trí tuệ cho lớp hậu sinh như Lý Đạo Thành đời Lý, Chu Văn An đời Trần, Nguyễn Trãi đời Lê.
Danh xưng Phúc thần Chu Văn An được chúng tôi tìm thấy trong sách Tối linh từ thực lục đang lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.1323. Sách ghi chép về lòng ngưỡng mộ của người dân Việt đối với danh nho Chu Văn An, trong đó có chép bài văn bia ở văn chỉ huyện Thanh Trì đặt tại làng Huỳnh Cung. Nhan đề văn bia ghi Huỳnh Cung huyện từ bi ký, nội dung tán thán công đức của Phúc thần Chu Văn An. Tác giả văn bia là Tiến sĩ Nguyễn Công Thái người làng Kim Lũ huyện Thanh Trì, thi đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1715, được bổ làm Giám sát Ngự sử đạo Nghệ An. Khi viết văn bia tác giả đang đảm nhận chức vụ này, mở đầu viết:
“Công tính Chu, tự Văn An, Thanh Đàm nhân, sĩ Trần triều hoàn tứ thế thời, hựu ẩn cư Chí Linh sơn, hậu tặng Văn Trinh công, tòng tự Văn miếu, thử kỳ biệt từ yên.
Tục truyền giảng đàn chi sở, lũy triều vinh họa đăng trật, chí kim tự vi Phúc thần. Cựu hữu công sự tích, đàn trù đôi điệp thạch triện ngoan bình, tư phụng tự hương tướng tái kỳ soạn thuật. Hậu sinh thiêm dự đồng huyện, bất cảm dĩ thiển chuyết từ, cẩn bái thủ nhi tự chi”.
Dịch nghĩa:
“Ông là người huyện Thanh Đàm, họ Chu tên tự là Văn An, làm quan đời Trần trải qua bốn đời vua, sau về ở ẩn tại núi Chí Linh, khi mất được ban tặng tên thụy là Văn Trinh công, cho tòng tự ở Văn Miếu. Đây là đền thờ riêng Ngài.
Tương truyền nơi giảng đàn của Ngài đã được nhiều đời vua tôn vinh coi trọng, đến nay được tôn thờ làm Phúc thần. Trước đây từng có bia đá ghi lại công tích của ngài, song trải qua năm tháng bia đổ chữ mờ, nay những người đảm trách công việc thờ tự ở làng lại tìm đến nhờ tôi viết cho bài ký. Tôi là kẻ hậu sinh, may mắn được lạm vào hàng cùng huyện với Ngài, thế thì đâu dám vin cớ ngu hèn vụng dại để từ chối, vậy nên đành chắp tay cung kính có lời trình bày rằng”.
Làng Kim Lũ của Tiến sĩ Nguyễn Công Thái giáp cư giáp canh với làng Thanh Liệt. Nơi đây có một con ngòi đưa nước từ sông Tô Lịch chảy vào hồ tròn mênh mông sóng nước của làng Thanh Liệt, nên dân cư hai làng có chung một dòng sông, một đầm nước mênh mông tưới mát cho cánh đồng của hai làng Kim Lũ, Thanh Liệt. Đầm tròn còn đem lại nguồn lợi tôm cá dồi dào cho cư dân, vậy nên nhân dân hai làng thường xuyên qua lại với nhau. Năm Mậu Thân (1728) niên hiệu Bảo Thái đời Lê Dụ Tông, Tiến sĩ Nguyễn Công Thái tham dự kỳ thi khoa Đông các được lấy đỗ, rồi lại được bổ giữ chức Tế tửu trông coi trường Quốc Tử giám. Kết quả này cho thấy Hậu sinh Nguyễn Công Thái đã học hỏi được nhiều từ Tiên hiền Phúc thần Chu Văn An. Tiến sĩ Nguyễn Công Thái chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Danh nho Chu Văn An, nên trong văn bia Huỳnh Cung huyện từ bi ký ông có những nhận xét đánh giá rất sâu sắc, và cũng có thể xem là lý do để triều đình cho thờ Chu Văn An là Phúc thần. Văn bia viết:
“Ôi! Cái đáng quý nhất của bậc sĩ quân tử là để tâm vào việc học, coi trọng chí hướng, thế mà ông lại dám bỏ cả đi để giữ vững đại nghĩa, chẳng hề a dua theo thói tục. Xem xét về các nhà Nho của nước Việt ta thì duy nhất có một mình ngài làm việc chẳng có điều gì đáng hổ thẹn vậy thôi”.
Tác giả văn bia cũng cho biết thêm Phúc thần Chu Văn An được thờ ở hai nơi chính là làng Huỳnh Cung huyện Thanh Trì trấn Sơn Nam và làng Kiệt Đặc huyện Chí Linh trấn Hải Dương. Trong sách Tối linh từ thực lục nhắc đến ở trên có nhiều tư liệu có thể dùng làm chứng cứ cho nhận xét này, chẳng hạn như câu đối thờ ở đền Phượng Sơn do quan Huấn đạo huyện Thanh Trì là Lê Quang Cảnh soạn viết:
Cung thủy liên y, lý học nguyên lưu tồn chính ấn;
Phượng cương ngưỡng chỉ, hậu nhân sơn đẩu thử sơ cơ.
Nghĩa là:
Sông nước đất Huỳnh sóng sánh, mạch nguồn lý học có chính ấn từ nơi đây;
Đỉnh núi Phượng Sơn cao vọi, các túc nho đời sau đều coi ngài đây là nền tảng.
1. Sông nước đất Huỳnh sóng sánh
Đất Huỳnh tức là chỉ vào làng Huỳnh Cung tổng Cổ Điển huyện Thanh Trì, nơi mà nhà giáo Chu Văn An từng mở trường dạy học. Các sách địa chí cổ cho biết ngoài xã Huỳnh Cung ra còn có 6 xã trong tổng Thanh Liệt thời bấy giờ cũng thờ. Đó là: Thanh Liệt, Bằng Liệt, Tựu Liệt, Linh Đường, Pháp Vân và Tứ Kỳ. Bảy xã này đều thờ hai vị học trò của nhà giáo Chu Văn An làm Phúc thần, ngoài ra còn có xã Đại Từ ở tổng Khương Đình cũng thờ. Tám xã có ngôi đền thờ chung ở xứ Xá Càn, tục gọi là Đền Càn. Sách Tối linh từ thực lục miêu tả hình thế của Đền Càn rất thần bí:
“Bên trái đền thờ Thần có gò Mộc Tinh, đây là mạch nguồn của lúa thóc. Mạch chạy dài đến xứ Xá Càn lại nổi lên một gò Mộc Tinh khác. Thần từ được dựng trên đỉnh gò, trước mặt có hai gò Thổ Tinh đứng làm tiền án chắn giữ từ xa. Nhìn từ xa lại thấy bản ấp có dòng khe chảy đến rất tự nhiên. Đây quả thực là miền đất phúc”.
Các vị phúc thần thờ ở Đền Càn luôn hiển linh để phò trợ dân các xã của tổng Thanh Liệt. Hàng năm mỗi khi gặp hạn hán, dân xã đến làm lễ cầu đảo ở Đền, đều thấy linh ứng, mưa gió thuận hòa, mùa màng tươi tốt. Do vậy dân cả tổng đều nô nức kéo đến lễ bái chật kín cả đền. Sách Tối linh từ thực lục, ghi được một truyền thuyết khá kỳ thú. Bấy giờ cả tổng Thanh Liệt đều thờ thánh, song đền thờ lại xây dựng trên đất xã Bằng Liệt, nên người xã Bằng Liệt được đứng ra làm chủ, còn các xã Pháp Vân, Tứ Kỳ, Linh Đường, Huỳnh Cung, Đại Từ, Tựu Liệt, Thanh Liệt đều chỉ là tòng tự. Trải các đời Trần, Lê việc tế lễ thuận theo như thế, song song đến triều Mạc (1527-1592), do quân Mạc chiếm giữ Thăng Long, nên lòng người trong tổng Thanh Liệt không còn thuần hậu như xưa. Một lần đến kỳ lễ thánh, mọi người hội họp và hẹn ước với nhau rằng, sáng sớm hôm sau hễ nghe thấy ba hồi pháo lệnh phát ra ở Đền Càn làng nào dâng lễ vật đến sớm nhất rước được bài vị về thì sẽ được làm chủ tế dứng đầu cả tổng. Hôm ấy làng Pháp Vân ở cạnh đầm Linh Đường, rất gần với đền, dân làng lại làm nghề đánh cá, thạo việc sông nước, vì thế đã đến trước rước bài vị đức Thánh về thờ ở làng. Các làng khác như Tứ Kỳ, Linh Đường, Bằng Liệt, Đại Từ, Tựu Liệt, Huỳnh Cung đến sau đành ngậm ngùi rước các đồ tế khí về thờ. Làng Tứ Kỳ nhận bản đọc văn tế, làng Linh Đường nhận được bộ chén uống rượu, làng Đại Từ nhận được đôi đũa và liễn đựng cơm, làng Tựu Liệt nhận được chậu quán tẩy, làng Bằng Liệt nhận được bộ bàn ghế. Riêng làng Thanh Liệt quê hương của Phúc Thần Chu Văn An đến sau cùng chẳng còn gì để nhận, đành phải về không.
Câu chuyện dân gian đậm màu huyền thoại đã thể hiện tấm lòng của người dân tổng Thanh Liệt đối với Phúc thần Đền Càn. Ngoài các làng ở huyện Thanh Trì kể trên, còn một làng Lê Xá nằm mãi bên bờ sông Nhuệ cũng lễ vọng Phúc thần. Làng Lê Xá thuộc xã Hữu Thanh Oai tổng Tả Thanh Oai huyện Thanh Oai nằm bên hữu sông Nhuệ, đối ngạn với dòng nước Cầu Bươu bên tả ngạn. Sách Thanh Liệt xã công khoán lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AF.a2 cho biết làng Thanh Liệt xưa có đầm nước lớn, dân làng gọi là Đầm Tròn nằm cạnh chùa Quang Ân của thôn Trung rộng mấy ngàn mẫu đất trải dài đến cánh đồng làng Tả Thanh Oai, thông với sông Nhuệ bằng ngòi nước nhỏ, gọi là ngòi Cầu Bươu.
Tương truyền hai vị Thủy thần con vua Thủy Tề cai quản Đầm Tròn này từng theo ngòi Cầu Bươu đi ra sông Nhuệ, đến chơi ở đình làng Lê Xá. Do vậy sau khi hai vị Thủy thần thăng hóa thì làng Lê Xá cũng lập đền thờ vọng và thờ cả Phúc thần Chu Văn An. Ở thành phố Hà Nội, ngoài các làng xã nói trên còn có làng Hương Viên ở tổng Thanh Nhàn huyện Thọ Xương cũng thờ Phúc thần Chu Văn An. Đình làng Hương Viên nằm ở khu vực phố Lê Ngọc Hân quận Hai Bà đã bị phá hủy từ lâu, nay nhân dân địa phương rước bài vị của tôn thần vào chùa Đức Viên ở phố Trần Xuân Soạn.
Những ghi chép trình bày ở trên đã cho thấy tấm lòng của người dân Hà Nội đối với Phúc thần Chu Văn An, trải qua năm tháng càng lâu càng thêm sâu nặng.
2. ĐỈnh núi PhưỢng Sơn cao vỌi
Đền thờ Phúc thần Chu Văn An ở huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương được xây dựng từ xưa. Hiện trong khu vực đền còn lưu giữ nhiều bia đá ghi lại công tích của phúc thần, trong đó có văn bia Chu Văn Trinh tiên sinh ẩn cứ xứ do Tiến sĩ Lê Đản soạn, là có niên đại cổ hơn cả. Lê Đản người làng Hương La huyện Yên Phong trấn Kinh Bắc, thi đỗ Tiến sĩ khoa Ất Mùi (1775), đến năm 1783 được cử về giữ chức Hiến sát sứ đạo Hải Dương.
Khi chưa đỗ đạt ông từng theo học Hoàng giáp Bùi Huy Bích ở Thăng Long. Đến khi được cử đi làm quan ở Hải Dương có đến Thăng Long bái biệt thày. Hoàng giáp Bùi Huy Bích bấy giờ đang làm Tham tụng ở phủ Chúa liền dặn dò Lê Đản rằng: “Ông đi làm quan ở Hải Dương, nên tìm đến thăm nơi ở ẩn của Tiên sinh Chu Văn Trinh tại làng Kiệt Đặc huyện Chí Linh”. Văn bia này được người đời truyền tụng và gọi bằng cái tên thân mật là Bát tự bi, nghĩa là văn bia có đầu nhan đề ghi bằng tám chữ Chu Văn Trinh tiên sinh ẩn cư xứ. Đến năm Thiệu Trị thứ 1 (1841) Cử nhân Nguyễn Bảo được cử làm Án sát sứ tỉnh Hải Dương đã dụng công sưu tập thơ văn của tiền nhân vào tập sách Phượng sơn từ chí lược, lại cho khắc ván in lưu hành rộng rãi. Trong bài Chu Văn Trinh hành trạng thuyết, Án sát sứ Nguyễn Bảo đã giới thiệu khá đầy đủ về thân thế sự nghiệp của Chu Tiên sinh. Tác giả viết ra những lời rất tâm huyết, dễ làm xúc động lòng người. Mở đầu bài văn nghị luận đó, Nguyễn Bảo viết:
“Chu Văn Trinh tiên sinh là bậc Nho tông của nước Việt ta, văn chương công hạnh của Tiên sinh được người đời truyền tụng thực sự đã rõ rồi!
Trước đây Bảo tôi đọc sử đến đoạn văn viết về Tiên sinh, không lần nào không cúi đầu suy ngẫm nuối tiếc rồi bật ra lời than rằng, vì sao mà các sử gia lại viết kiệm lời như thế!”
Án sát sứ Nguyễn Bảo nuối tiếc vì tư liệu viết về Phúc thần Chu Văn An tuy đã rõ rồi, song lại quá ít. Vì vậy ông đã dụng công sưu tập văn bia, thơ phú và cả câu đối đại tự viết về Tiên sinh. Hiện ở đền thờ Chu Văn An tại làng Kiệt Đặc huyện Chí Linh còn lưu giữ được hàng chục đôi câu đối, hàng chục bức hoành phi tán thán công đức của Tiên sinh, ví dụ câu:
Trần vãn sớ vi hưu, vạn thế đồng chiêm hiền giả cách,
Phượng Sơn tồn ẩn xứ, thiên niên trường ngưỡng triết nhân phong.
Nghĩa là:
Cuối đời Trần dâng sớ về hưu, muôn thuở tôn sùng cốt cách của bậc hiền giả;
Núi Phượng Sơn tìm nơi ở ẩn, ngàn đời ngưỡng vọng phong thái của hạng triết nhân.
Đặc biệt ở gian giữa đền thấy treo bức đại tự rất trang nghiêm:
Nho tông Phúc thần
Nghĩa là:
Phúc thần của đạo Nho ở nước Việt
Trong lịch sử tín ngưỡng dân gian của Việt Nam, những người con ưu tú tận tụy với dân, lúc mất đi được dân tôn thờ làm Phúc thần, thờ phụng ở đình làng thì rất nhiều, song được dân tôn làm Phúc thần của đạo Nho thì thực rất hiếm.
3. PHÚC THẦN CỦA ĐẠO NHO
Trong văn bia Huỳnh Cung huyện từ bi ký, Tiến sĩ Nguyễn Công Thái soạn đã có những nhận xét đánh giá rất đúng về tầm ảnh hưởng của Phúc thần Chu Văn An đối với việc chấn hưng đạo học và nâng cao phong cách sống làm người của dân chúng. Văn bia viết:
“Ô hô! Thánh hiền hạnh viễn, phi Công tự nhậm thùy kỳ học giả Thái Sơn; Liêm xỉ phong vi, phi Công cao thượng thùy kỳ sĩ phu để trụ! Thụy viết Văn Trinh phi hư mỹ dã!”
Nghĩa là:
“Than ôi! Các bậc Thánh hiền nay đã xa lắm rồi, nếu chẳng có Ngài tự gánh trách nhiệm thì lấy ai làm Thái sơn Bắc đẩu cho lũ học trò noi theo; Phong cách coi trọng liêm xỉ đã suy đồi, nếu chẳng có Ngài tính cách cao thượng thì lấy ai làm trụ cột vững chãi cho đám sĩ phu học tập! Vậy thì việc Ngài được ban tên thụy là Văn Trinh đâu phải chỉ là hư danh!”
Phúc thần Chu Văn An khi mất được Hoàng đế nhà Trần ban tên thụy là Văn Trinh, cho tòng tự ở Văn miếu Thăng Long. Sách Phượng Sơn từ chí lược cho biết, việc để Văn Trinh công tòng tự ở Văn miếu Thăng Long tồn tại suốt các đời Trần, Lê Sơ, Mạc, Lê trung hưng trải đến đời Tây Sơn thì chưa kịp đưa vào. Đến năm Minh Mệnh thứ 8 (1827) triều Nguyễn, các quan ở bộ Lễ dâng sớ xin đưa Ngài vào tòng tự ở Văn miếu. Nhà vua giao cho các đình thần tra xét, đến năm Minh Mệnh thứ 18 (1837) thì mới được chấp thuận. Ngoài việc được phối thờ ở Văn miếu quốc gia, Phúc thần Chu Văn An còn được nhiều làng quê lập ban thờ ở Văn chỉ hàng xã, văn từ hàng tổng, và văn miếu hàng huyện. Sách Tối linh từ thực lục sao chép được văn bia Văn Điển từ chỉ bi ký do Hoàng giáp Bùi Huy Bích soạn ghi nhận, làng Văn Điển tổng Cổ Điển huyện Thanh Trì xây dựng từ chỉ, lập bài vị thờ Phúc thần Chu Văn An. Văn bia viết:
“Chu tiên sinh không phải là người làng Văn Điển, thế mà dân làng lại rước ngài về thờ ở từ chỉ, sao vậy? Bởi lẽ thời xưa một quóc gia không sinh ra bậc Tiên sư, nhưng đã biết rước bậc Tiên sư của nước láng giềng về thờ, huống hồ Chu tiên sinh là bậc Nho tông của nước Việt, và cũng là bậc tiền bối của huyện Thanh Trì. Tiên sinh dốc chí vào đạo làm việc hết lòng, chẳng cầu danh lợi, chính trực đứng trong triều, bước tiến hợp theo lễ, lui về đúng đạo nghĩa, khiến cho ai biết tiếng cũng đều kính phục”.
Ngoài làng Văn Điển tổng Cổ Điển huyện Thanh Trì ra, còn nhiều làng xã ở các trấn Sơn Nam, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương cũng đều phối thờ Chu tiên sinh ở Văn từ. Chúng tôi tìm hiểu các bản văn tế của các làng xã đang lưu giữ tại kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu AF, thì thấy có đến hàng chục làng xã tôn thờ Phúc thần Chu Văn An ở Văn chỉ, như:
- Xã Bút Phong huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam.
- Xã Phong Cốc huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định.
- Xã Cự Sưu huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên.
- Xã Sơn Bình huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc.
- Xã An Liệt huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương.
Nội dung văn tế tiên hiền ngắn gọn súc tích, bày tỏ lòng biết ơn của hậu thế với các vị thánh sư, cầu mong cho đạo học mở mang. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu bản văn tế của làng Dã Cát huyện Quốc Oai thành phố Hà Nội, để chúng ta có thể hình dung được phần nào nghi lễ quan trọng ấy:
Văn tế tại Văn từ Dã Cát
Ngày tháng năm
Hội Tư văn của làng sắm sanh lễ vật kính dâng lên bàn thờ chư vị Tiên thánh:
Đại Thành Chí thánh Văn Tuyên Vương cùng các vị Tứ phối, Thập triết, và các vị Đông liêm Thừa hương hầu Đạm Đài Diệt Minh, Tây liêm Đệ sư hầu Văn Trinh công Chu An, lại kính thỉnh chư vị tiên hiền hậu hiền ở bản huyện cùng về phối hưởng.
Kính nghĩ Đức Thánh Vương,
Tiếp nối đế Thuấn đế Nghiêu,
Học đòi vua Văn vua Vũ.
San định lại lục kinh,
Để truyền cho muôn thuở.
Vừa qua lễ Xuân đinh,
Nay đến tuần Thu tế.
Cung kính dâng lễ vật,
Xin thấu tỏ lòng thành.
Ban cho lời dạy bảo,
Để đạo học tốt lành.
Người đi thi được đỗ,
Đạo thống được thông hành.
Nền Tư văn còn mãi !
Đạm Đài Diệt Minh là học trò của Khổng Tử. Ông là người đất Vũ Thành nước Lỗ, nay thuộc phía nam huyện Đông Phí tỉnh Sơn Đông của Trung Quốc, được làng Dã Cát thờ ở nhà Đông liêm của Văn từ, còn Văn Trinh công Chu An được thờ ở nhà Tây liêm đăng đối với nhà Đông liêm. Điều đó cho thấy lòng tin của người dân nước Việt gửi vào Việt điện Nho tông Phúc thần Chu Văn An sâu nặng biết dường nào!
Tác giả: PGS. Nguyễn Tá Nhí (Viện Nghiên cứu Hán Nôm)
Trích Hội thảo khoa học “Danh nhân Chu Văn An – Con người và sự nghiệp”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chu Văn Trinh tiên sinh ẩn cư xứ, No19533- 34
2. Chu tiên sinh hành trạng, No1935 - 36
3. Tối linh từ thực lục , A.1323
4. Phượng Sơn từ chí lược, VHv. 1287
5. Cầu Đơ tỉnh nhân đinh phong tục tổng sách, A.718
6. Làng xã ngoại thành Hà Nội, Bùi Thiết, Nxb Hà Nội, 1985
7. Quốc triều đăng khoa lục, Nxb Khoa học xã hội, 1995.
CHU VĂN AN TRONG TÂM THỨC NGƯỜI DÂN THANH TRÌ
"Về Thanh Trì quê tôi... phía nam thành phố. Về Thanh Trì quê tôi, mảnh đất linh thiêng mảnh đất anh hùng, mang truyền thống ngàn năm, Thăng long, Hà Nội...".
Ca từ thiết tha, giai điệu ngọt ngào này trong bài hát "Thanh Trì quê tôi" cũng chính là niềm tự hào khôn xiết của mỗi người dân nơi đây khi nhắc đến vùng đất cổ có truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời quê hương yêu dấu của mình. Thanh Trì đời nào cũng xuất hiện những nhân vật nổi tiếng như Lão Tướng Phạm Tu thế kỷ VI, dòng họ Ngô Thì (thế kỉ XVIII) thuộc xã Tả Thanh Oai... Huyện có truyền thống hiếu học, có 2 làng khoa bảng nổi tiếng là làng Nguyệt Áng- Xã Đại Áng và làng Tả Thành Oai- xã Tả Thanh Oai, và một trong những niềm tự hào bậc nhất của Thanh Trì chính bởi đây cũng là nơi sinh ra và nuôi dưỡng nên người con ưu tú, lỗi lạc là nhà sư phạm mẫu mực, người thầy giáo của muôn đời – tiên triết Chu Văn An.
Chu Văn An (còn gọi là Chu An, 1292 - 1370), tự là Linh Triệt, hiệu là Tiều Ẩn, người làng Quang Liệt (nay là thôn Văn), xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Trong lịch sử giáo dục Việt Nam thời Trung đại, Chu Văn An đã giành được địa vị cao quý bậc nhất. Có lẽ ông là người duy nhất trong thời phong kiến nước ta, do việc tự học, tự dạy học mà được triều đình mời ra làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám - một chức lãnh đạo ngôi trường cấp cao nhất nước ta và cũng là chức quan trông coi việc Quốc học. Khi ông mất, vua Trần Nghệ Tông ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh với ý nghĩa ca ngợi một con người kết hợp được cả hai mặt của đạo đức là vẻ ngoài thuần nhã, hiền hòa và cốt cách chính trực, kiên định; được thờ ở Văn Miếu, ngang hàng với các bậc thánh hiền. Đó là điều hết sức hiếm có. Sử gia Phan Huy Chú cũng khẳng định Chu Văn An “đứng đầu bậc danh Nho” có đức nghiệp, “học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, được thời ấy suy tôn, thời sau ngưỡng mộ."
Trong tâm thức của nhân dân Thanh Trì, cuộc đời thanh bạch và tiết tháo của Chu Văn An là tấm gương sáng của mọi thời đại, được đời đời sùng kính, tôn vinh. Cùng với Đô Hồ Đại Vương Phạm Tu, Chu Văn An được người dân xã Thanh Liệt – huyện Thanh Trì tôn làm Thành hoàng làng, thờ tại ngôi đình khang trang bên bờ sông Tô Lịch. Nhân dân gọi ông là "Đức thánh Chu", "Đức thánh Văn" với tất cả tấm lòng thành kính, ngưỡng mộ.
CÓ NGƯỜI ĐÃ TỪNG NÓI:" CON NGƯỜI TA CHỈ THỰC SỰ CHẾT KHI KHÔNG ĐỂ LẠI TRONG LÒNG NGƯỜI SỐNG MỘT ĐIỀU GÌ CẢ". NHƯ VẬY, VỚI CHU VĂN AN, TUY THẦY ĐÃ ĐI XA, CÁCH CHÚNG TA GẦN BẢY THẾ KỈ NHƯNG TÊN TUỔI, TÀI NĂNG VÀ TÂM HUYẾT, PHẨM CÁCH CỦA THẦY LUÔN NGỜI SÁNG CÙNG THỜI GIAN, CÒN MÃI KHẮC SÂU TRONG TÂM THỨC NGƯỜI DÂN BAO THẾ HỆ...
Chu Văn An – xứng tầm bậc tiên triết lỗi lạc: Chu Văn An là nhà nho sống có lý tưởng, xem lý tưởng là trên hết. Sách Đại Việt sử ký toàn thư xác nhận, trước khi làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Chu Văn An “ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần xa, học trò đầy cửa, thường có kẻ đỗ đại khoa”. Ông là bậc thánh hiền đạo Nho, học vấn tinh thông , học trò theo học ông rất đông cũng là học Nho và vì thế mới có thể đỗ đại khoa mà vào làm quan trong triều. Học trò của ông không chỉ được học chữ thánh hiền mà còn được dạy về đạo đức của bậc trí nhân quân tử. Dù ở cương vị nào, họ cũng là những tấm gương về tài năng, đức độ. Như Phạm Sư Mạnh và Lê Quát – đều đỗ Thái học sinh và làm quan Hành khiển trong triều Trần. Dù quyền cao, chức trọng nhưng mỗi lần tới thăm thầy, họ đều quỳ gối để được thỉnh giáo. Điều đó một mặt cho thấy đạo đức tuyệt vời của học trò chốn cửa Khổng sân Trình, mặt khác khẳng định thầy Chu Văn An tài năng, đức độ như thế nào...Theo thầy Chu Văn An, mục đích và thành quả của việc học không phải chỉ là kiến thức mà học để thành người có đức lớn.
Chu Văn An - Tiết tháo ngay thẳng, không sợ cường quyền: uy tín của Chu Văn An với đời không đóng khung trong tài học mà còn bởi tiết tháo làm người. Vì thế không chỉ học trò mà nhân dân muôn đời đều ngưỡng mộ, coi ông như núi Thái Sơn, sao Bắc Đẩu trong kẻ sĩ. Ông nêu cao khí tiết và tư tưởng độc lập trong hành sự của mình: “Chí khí dũng cảm thuở bình sinh như chim hạc bay ngang trời thu”. Đồng thời, ông cũng thể hiện khí chất thanh cao, bản lĩnh “độc lập” - đứng một mình, tách ra khỏi dòng đời bụi bặm. Ví mình như cây tùng, đóa sen, như phượng hoàng đậu trên ngô đồng, ông nhấn mạnh đến sự cần thiết phải đề cao ý chí tự do và việc giữ gìn khí tiết. Kẻ sĩ luôn có thái độ cứng rắn, cương nghị trước uy thế của cường quyền (uy vũ bất năng khuất). Chu Văn An làm quan trông coi việc giáo dục nhưng không vì thế mà ông lãng quên chức trách của nhà nho - kẻ sĩ: “chịu để tâm đến đạo đức, suy nghĩ tới việc giúp vua nêu đức tốt, cho dân được nhờ ơn”. Ông giáo dục học trò phải có tinh thần dũng cảm, tiết tháo cao thượng, trừ hại kẻ gian tà để giúp dân giúp nước, và chính ông đã thực hiện điều đó. Hành động dâng Thất trảm sớ đã chứng minh cho tính cách kẻ sĩ của ông không khoan nhượng đối với những kẻ quyền thần gian tham. Chỉ ba chữ Thất trảm sớ đã làm cho người đời khâm phục, kính trọng ông và hành động theo ông để giữ tròn tiết tháo của một người có trách nhiệm với đất nước non sông. Đây cũng lại là hành động thể hiện rõ tính cách kẻ sĩ ở Chu Văn An. …Hình ảnh người thầy lưng còng, tóc bạc vẫn nặng lòng với vận nước có sức lay động, thức tỉnh triệu triệu trái tim con người về ý thức trách nhiệm với đất nước, nhân dân.
Chu Văn An – người thầy tâm huyết với sự nghiệp giáo dục: Tính cách kẻ sĩ của Chu Văn An còn thể hiện rõ trong việc làm cho “giáo hóa được đổi mới”. Ông chính là hiện thân của một nhà sư phạm mẫu mực. Chu Văn An quan niệm vai trò của nhà nho (nhà giáo dục) trước hết phải có nhiệm vụ gây dựng sự thành đạt cho người khác, phải vì dân mà cống hiến, để lại sự nghiệp cho hậu thế. Ông đã từng dạy học trò: “Phàm học thành đạt cho mình là để thành đạt cho người, công đức tới dân, ân huệ để lại đời sau, đấy đều là phận sự của nhà nho chúng ta”. Chu Văn An đã mở trường tư thục Huỳnh Cung ở quê nhà để thu nhận học trò nghèo. Đây là minh chứng cho việc thực hiện chủ trương giáo dục không phân biệt đối tượng mà Khổng Tử đã nêu lên. Ông dạy nhiều hạng người: Thái tử Trần Vượng (sau là vua Trần Hiến Tông); các học trò đỗ đạt cao, làm quan trong triều (Phạm Sư Mạnh, Lê Quát,...) và nhiều học trò khác (tương truyền có tới hơn ba nghìn người); thậm chí theo huyền tích, có cả con vua Thủy vùng đầm Long Đàm cũng hiện thành người theo học. Điều này đã chứng tỏ uy tín và đạo hạnh của ông vượt ra khỏi cả sự lưu truyền trần thế để đến với thế giới thần linh. Với việc mở trường tư dạy học, ông đã góp phần làm cho không khí học tập cuối thời Trần trở nên sôi nổi. Suốt cuộc đời Chu Văn An luôn gắn bó, tận tụy với nghề dạy học, không vì ham công danh, phú quý mà quên đi công việc “dạy chữ, dựng người”.
Với cốt cách thanh cao, tinh thần trong sáng, trí tuệ sâu sắc và đạo học vững vàng, ông là một nhân cách lớn, đứng đầu trong lịch sử giáo dục Nho học nước nhà. Ông xứng đáng được tôn vinh là “Bậc Tiên Triết như núi cao cho mọi người trông thấy, như đường lớn cho mọi người noi theo” (Bùi Huy Bích). Tấm gương người thầy vĩ đại Chu Văn An vẫn luôn in đậm trong tâm trí người dân Việt Nam như lời khẳng định của Cao Bá Quát trong bài Vịnh Chu An: “Trời đất soi chung vầng hào khí/ Nước non còn mãi nếp cao phong”.
Đã gần bảy thế kỉ trôi qua kể từ khi Chu Văn An qua đời, dù tư liệu về ông đã thất lạc nhiều, những di tích liên quan đến ông cũng phần nào thay hình đổi dạng nhưng cái còn lại mãi với đời chính là sự trân trọng, tri ân của nhân dân về một người thầy tài đức vẹn toàn.
Chính quyền và nhân dân Thanh Trì luôn nhất quán quan điểm phải có trách nhiệm tôn tạo, trùng tu đình thờ Chu Văn An trên tinh thần giữ nguyên gốc hiện trạng di tích, tôn trọng lịch sử để xứng tầm với công đức một danh nhân văn hóa, người thầy của muôn đời. Với kinh phí trên 7,8 tỷ đồng từ ngân sách Nhà nước; các nguồn xã hội hóa do nhân dân và khách thập phương công đức gần 700 triệu đồng, đình thờ tiên triết Chu Văn An đã cơ bản hoàn thành giai đoạn 1. Bên dòng sông Tô Lịch ghi lại bao dấu tích lịch sử, một ngôi đình với phần cột và cấu kiện được thay mới nhưng giữ nguyên dáng nét kiến trúc cổ kính thời Lê Trung Hưng đã được phục dựng thật đẹp mắt. Vẫn là mô hình kiến trúc “nội công, ngoại quốc” (tức là bên trong kiến trúc hình chữ Công, nhìn toàn cảnh trong ngoài tựa hình chữ Quốc), đình thờ Chu Văn An tuy mới mẻ nhưng vẫn thân thuộc như hàng trăm năm trước đó. Kiến trúc chữ Công với ba nếp nhà gồm tiền tế, phương đình và hậu cung khang trang, nền gạch Bát Tràng được nung đốt bằng rơm để giữ nguyên nét cổ xưa vốn có. Nhà gỗ táu mật, lợp ngói liệt, bậc thềm đá, đồ thờ sơn son thếp vàng… diện mạo ngôi đình thật trang trọng, ấm áp mà thành kính. Chính giữa nhà tiền tế là hai tấm hoành phi sơn son thếp vàng với ba chữ “Túc thanh cao” (nghĩa là trí tuệ uyên bác như sao sáng) và bốn chữ “Vạn thế sư biểu” (Nghĩa là người thầy của muôn đời) như một sự tôn vinh của con cháu muôn đời với một danh nhân, một nhà giáo cao quý cũng như sự học và đạo làm thầy của mọi thời đại.
Đặc biệt, nhân dân Thanh Trì – quê hương của thầy càng tự hào hơn khi tại đền thờ thầy tại xã Thanh Liệt, vào mùng 4 Tết Âm lịch hằng năm, UBND Thành phố Hà Nội giao cho Sở GD&ĐT Hà Nội, UBND huyện Thanh Trì tổ chức lễ khai bút đầu năm với ý nghĩa tri ân, tưởng nhớ người thầy vĩ đại của muôn đời cũng như bày tỏ sự trân trọng với đạo học ngàn năm của dân tộc. Như vậy, có thể kể đến những ngày lễ hội gắn với người thầy vĩ đại này (tại Thanh Trì – quê hương thầy hay tại Chí Linh – Hải Dương, nơi thầy ở ẩn) như:
- Lễ hội mùa xuân – Lễ Khai bút (vào tháng Giêng)
- Lễ hội mùa thu – mùa khai trường (gắn với ngày 15/8 – sinh nhật thầy)
- Lễ hội về nguồn (26/11, tưởng nhớ ngày mất của thầy)
- Lễ hội mùa thi – khách dâng hương xin lộc thi cử
- Ngày 20-11: lễ hội dâng hương tri ân thầy
Những mốc lễ hội kể trên chính là tấm lòng thành kính, tri ân của nhân dân Thanh Trì – Hà Nội nói riêng, nhân dân cả nước nói chung hướng về thầy Chu Văn An, là minh chứng cho sức sống bền bỉ của tên tuổi, khí tiết, phẩm hạnh của Vạn thế sư biểu – tiên triết Chu Văn An.
Trích Hội thảo khoa học “Danh nhân Chu Văn An – Con người và sự nghiệp”
TƯ NGHIỆP QUỐC TỬ GIÁM CHU VĂN AN VỚI VĂN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM THĂNG LONG
Chu Văn An (Chu An) tự Linh Triệt, sinh năm 1292 tại xã Quang Liệt huyện Long Đàm, nay là xã Thanh Liệt thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông là nhà giáo dục, người thầy đạo cao đức trọng, thanh liêm, cương trực, có nhiều đóng góp cho nền giáo dục Nho học Việt Nam, đặc biệt trong việc đào tạo nhân tài, khẳng định vị thế của việc giáo dục Nho học trong việc quản lý, phát triển đất nước. Cuộc đời làm thầy của ông đã trở thành tấm gương mẫu mực cho lớp lớp thế hệ noi theo. Chu Văn An cho đến nay vẫn được coi là một trong những vị Tư nghiệp đầu tiên của Quốc Tử Giám, người thầy đứng đầu Quốc Tử Giám, có nhiều dấu ấn với Văn Miếu - Quốc Tử Giám và nền quốc học nước nhà ở thế kỷ XIV.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long được khởi lập cuối thế kỷ XI gồm có Văn Miếu được thành lập vào năm 1070 dưới triều vua Lý Thánh Tông để thờ Khổng Tử và các Tiên hiền Nho học và là nơi cho Hoàng Thái tử học. Sáu năm sau (1076), một trường học của nhà nước - Quốc Tử Giám chính thức được thành lập dành cho văn thần và con em Hoàng gia học tập[1].
Dưới triều Lý, Văn Miếu – Quốc Tử Giám chưa thực sự được triều đình chú trọng, quan tâm. Việc giáo dục còn nhiều sơ sài. Điểm lại trong chính sử, chỉ thấy ghi vài sự kiện, chẳng hạn như năm 1075, triều đình cho thi chọn Minh kinh bác học và Nho học tam trường[2]. Khoa thi này có thể coi là khoa thi đầu tiên về Nho học. Tiếp sau đó, năm 1077, triều Lý cho thi chọn lại viên bằng thi viết chữ, tính toán và hình luật[3]. Tuy nhiên, khoa thì này chưa thể coi lại thi Nho học được. Việc coi trọng và sử dụng Nho giáo chưa được Triều đình để tâm cho dù đến hơn 80 năm sau, vào năm Bính Tý, niên hiệu Đại Định 17 (1156), khi Lý Anh Tông cho dựng Văn Miếu thờ Khổng Tử, và sau đó 10 năm (1165) cho tổ chức thi cử. Sau những sự kiện đó cho đến cuối thời Lý, có vài sự kiện được sử ghi lại như năm 1171, cho làm lại miếu thờ Văn Tuyên vương, năm 1195, cho thi tam giáo (Nho, Phật, Lão)[4]. Rõ ràng thời Lý, Nho học mới bắt đầu được triều đình để ý, nhưng chưa thực sự coi trọng. Văn Miếu-Quốc Tử Giám được lập tôn vinh ông tổ của Nho học và dành cho con em quý tộc vào học, xong, chưa thấy kết quả mà chính sử ghi lại. Nho học, Nho giáo và những người theo Nho học chưa thực sự có chỗ đứng trong xã hội triều Lý.
Trần Thái Tông lên thay nhà Lý năm 1225, khởi lập vương triều Trần đã quan tâm đến việc đào tạo, kén chọn, bồi dưỡng nhân tài. Năm 1232, Trần Thái Tông cho mở khoa thi Nho học đầu tiên của triều mình để chọn Thái học sinh, đồng thời phân hạng người đỗ thành 3 giáp[5]. Sau đó 4 năm, vào năm 1236, Trần Thái Tông không chỉ chọn Nho sinh đã đỗ vào trọng dụng, lập thành lệ mà còn cử một vị quan đặc trách công việc ở Quốc Tử Giám. Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Mùa thu tháng 8, chọn các nho sinh đã đỗ vào chầu, sau làm định lệ. Mùa đông, tháng 10, cho Phạm ứng Thần làm Thượng thư tri Quốc Tử viện, đưa con em văn thần và tụng thần vào học”[6]. Một lọat các sự kiện được Trần Thái Tông cho thực hiện như năm 1243, vua Trần Thái Tông cho trùng tu Quốc Tử Giám; năm 1246 cho định lệ thi Tiến sĩ 7 năm một khoa thi, đồng thời cho tổ chức thi. Ngay sau đó, năm 1247, tổ chức thi và lấy Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ Bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ Thám hoa lang. Cho 48 người đỗ Thái học sinh xuất thân theo thứ bậc khác nhau; năm 1253, xuống chiếu lập Quốc học viện, và tháng 9 năm đó xuống chiếu mời Nho sĩ trong nước đến Quốc Tử Viện giảng Tứ thư, Lục kinh.
Một loạt sự kiện dồn dập được tiến hành đã chứng tỏ vị thế của Nho học và Nho giáo trong xã hội. Đặc biệt hơn, Triều đình đã nhận rõ vai trò của người thầy với Quốc Tử Giám nên năm 1272, Vua Trần Thánh Tông xuống chiếu tìm người tài giỏi, đạo đức, thông hiểu kinh sách làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám[7]. Như vậy, đến lúc này, Văn Miếu-Quốc Tử Giám đã thực sự trở thành trung tâm giáo dục cấp cao nhất của Đại Việt, bởi nó không chỉ là nơi học tập của các nhà quản lý, lãnh đạo đất nước tương lai, mà việc giáo dục đã có quy củ: Trường đã được nâng cấp, và người trực tiệp phụ trách công việc của trường là một Thượng thư. Những người đến học sẽ tham gia các kỳ thi để lấy học vị Tiến sĩ, học vị cao nhất lúc bấy giờ. Việc học tập ở đây cũng là học ở mức cao nhất: những kinh điển của Nho gia: Tứ thư và Ngũ kinh.
Để khuyến khích người học, triều đình liên tục mở các khoa thi kén kẻ sĩ, biểu dương người đỗ đạt, như phân hạng cao thấp trong khoa thi, ban cho danh hiệu cao quý: Trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa.... ban mũ áo, ngựa quý, vinh quy bái tổ... bổ nhiệm trọng trách. Sách Đại Việt sử ký ghi lại sự kiện đặc biệt đối với người học vào năm 1304 như sau: “Tháng 3, thi kẻ sĩ trong nước. Ban cho Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi chức Thái học sinh hoả dũng thủ, sung làm nội thư gia; Thám hoa lang Trương Phóng chức Hiệu thư quyền miện; sung làm nhị tư; Nguyễn Trung Ngạn đỗ Hoàng giáp, tất cả 44 người đỗ Thái học sinh. Dẫn 3 người đỗ đầu ra cửa Long Môn của Phượng Thành đi du ngoạn đường phố 3 ngày. Còn 330 người khác thì ở lại học tập”. Tất cả những thành ý đó của Triều đình cũng nhằm lựa chọn được nhiều nhân tài nho học, mà để có được thành quả, thì việc chăm lo đến việc đào tạo, giáo dục là điều đương nhiên. Triều đình không thể quên được vai trò của người thầy, nhất là người thầy ở Quốc Tử Giám đối với nền giáo dục nước nhà, do đó đương nhiên phải lựa những người xuất sắc làm thầy tại Quốc Tử Giám.
Chu Văn An sinh ra tại vùng quê ngoại thành Thăng Long, nổi tiếng tinh thông đạo học. Chưa có tư liệu nào khẳng định ông có tham gia và đỗ kỳ thi nào không nhưng tư cách và trình độ của ông được các thế hệ ghi nhận và truyền lại trong nhiều tư liệu. Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư rất trân trọng khi ghi về ông: “An (người Thanh Đàm ), tính cương nghị, thẳng thắn, sửa mình trong sạch, bền giữ tiết tháo, không cầu lợi lộc. Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần xa, học trò đầy cửa, thường có kẻ đỗ đại khoa, vào chính phủ. Như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát đã làm hành khiển mà vẫn giữ lễ học trò, khi đến thăm thầy thì lạy hỏi ở dưới giường, được nói chuyện với thầy vài câu rồi đi xa thì lấy làm mừng lắm. Kẻ nào xấu thì ông nghiêm khắc trách mắng, thậm chí la hét không cho vào.”[8]Cũng chính Ngô Sĩ Liên cho ta biết, Chu Văn An được vua Trần Minh Tông mời ra dạy học cho Hoàng Thái tử Trần Vượng, và giữ cương vị làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám.
Trong bối cảnh khi triều đình đang cần những người tài năng, quan tâm đến giáo dục Nho học như đã nói ở trên, việc tìm được một người có phẩm chất và trí tuệ như Chu Văn An quả là may mắn. Và việc Trần Minh Tông mời ông ra làm tư nghiệp Quốc Tử Giám, đồng thời dạy học cho Thái tử đã chứng tỏ uy tín, tài năng của ông trong giới học thuật, trong xã hội. Cho đến nay chưa có thông tin nào cho biết chính xác vào năm nào ông được mời ra giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, nhưng có hai điều chúng ta có thể khẳng định được, đó là: thứ nhất, đây là chức quan đứng đầu, quản lý việc dạy học tại Quốc Tử Giám, và thứ 2, ông là vị Tư nghiệp Quốc Tử Giám đầu tiên mà sử sách chính thức ghi nhận.
Xét trong chính sử, kể từ khi Quốc Tử Giám được chính thức nhắc đến vào năm 1076, cho đến năm 1272 mới thấy nhắc đến việc tuyển chọn chức quan Tư nghiệp cho Quốc Tử Giám, và người được chọn vào chức này phải là người“tài giỏi, đạo đức, thông hiểu Kinh sách”[9], nhưng chưa thấy tài liệu nào nói, trong đợt tuyển chọn này vua Trần Thánh Tông chọn được ai để bổ nhiệm, và cũng không có tài liệu nào nói rõ vào làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám thì làm gì. Để làm rõ hơn, ta thử tìm hiểu xem chức quan Tư nghiệp là gì và có trách nhiệm gì đối với Quốc Tử Giám. Theo Tiến sĩ Đặng Kim Ngọc, “Tư nghiệp, theo nghĩa đen, đó là người phụ trách, quản lý một chuyên môn hay một nghiệp vụ nào đó, ở đây là phụ trách việc giáo dục đào tạo nhân tài”[10], và vì vậy, chức quan Tư nghiệp là chức quan đứng đầu phụ trách việc giáo dục, dạy học ở Quốc Tử Giám. Đỗ Văn Ninh trong Từ điển chức quan Việt Nam cho biết, ở Trung Quốc, chức Quốc Tử Giám tư nghiệp được đặt vào năm Đại Nghiệp 3 thời nhà Tùy (607), làm phó cho Tế tửu, nắm việc giáo pháp, chính lệnh của các nhà học và Quốc Tử Giám[11]. Ở đây chúng ta thấy, dù làm phó cho Tể tửu (chức trưởng quan của Quốc Tử Giám), nhưng là người phụ trách việc giáo pháp, chính lệnh của Quốc Tử Giám, tức phụ trách việc tổ chức và chỉ đạo việc giảng dạy tại trường, nói cách khác là người chịu trách nhiệm về mặt chuyên môn của nhà trường. Như vậy, năm 1272, vua Trần Thánh Tông cho chọn Tư nghiệp Quốc Tử Giám là chọn người phụ trách, người đứng đầu về chuyên môn của trường – quản lý việc giáo dục, đào tạo của Quốc Tử Giám. Tuy nhiên, kể từ đó trở đi cho đến thời Trần Minh Tông, chưa thấy sử sách nào chép tên cụ thể người được chọn vào làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám Thăng Long. Trường hợp Chu Văn An là người đầu tiên được chính sử ghi chép. Vậy Chu Văn An được bổ Tư nghiệp Quốc Tử Giám từ khi nào, và đến khi nào? Như trên đã đề cập, Chu Văn An được vua Trần Minh Tông mời làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám và dạy Thái tử . Thái tử Trần Vượng sinh năm 1319, được vua Trần Minh Tông sắc phong Đông cung Thái tử vào năm 1328[12]. Như vậy, có thể thấy rằng, Chu Văn An được vua Minh Tông mời ra làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám và dạy thái tử vào khoảng cuối năm 1328. Năm sau, 1329, Thái tử Vượng lên ngôi, đó là vua Trần Hiến Tông. Chu Văn An làm quan trải hết đời vua Hiến Tông (1329-1341), sang đời Trần Dụ Tông (1341-1369). Trong thời gian nay, sử có cho biết ông dâng Thất trảm sớ nhưng không được chấp nhận, nên lui về ở ẩn. Như vậy, thời gian ông dâng sớ cũng là lúc ông thôi chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, và đó là lúc triều đình rối ren, quyền thần lộng hành. Căn cứ lời chua của Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư về Trần Dụ Tông thì, thời kỳ rối ren là từ giai đoạn niên hiệu Đại Trị (1358-1369). Như vậy, có thể đoán vào khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ 14, Chu Văn An thấy chính sự không được Dụ Tông quan tâm, đã cố khuyên can, xong không đạt được mong muốn, ông đã từ quan. Như vậy, thời gian Chu Văn An làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám là từ 1328 đến khoảng 1360, trên 30 năm.
Với hơn 30 năm giữ chức Tư nghiệp, chức quan phụ trách việc giáo dục, đào tạo nhân tài tại Quốc Tử Giám, Chu Văn An đã làm những công việc cụ thể gì để đóng góp vào việc phát triển nền giáo dục Nho học, đào tạo nhân tài cho đất nước. Chưa tìm được những tư liệu cụ thể ghi chép về những công việc mà Chu Văn An đã làm tại trường, nhưng chắc chắn rằng, ngoài việc dạy học cho Thái tử, Chu Văn An với cương vị là người chịu trách nhiệm chính về giáo dục tại Quốc Tử Giám phải lập kế hoạch và chuẩn bị nội dung học tập, rèn luyện cho cho con em đại thần tại trường. Có lẽ những bài giảng, nội dung giáo dục của Chu Văn An trong suốt thời gian làm Tư nghiệp được đúc kết từ những bài giảng khi ông còn là một thày giáo tại trường ở Huỳnh Cung, và sau đó, tập hợp thành một tác phẩm mà các thế hệ sau vẫn còn nhắc đến là Tứ thư thuyết ước (rất tiếc, chúng ta hiện vẫn chưa tìm được thấy tác phẩm này). Trong suốt thời gian Chu Văn An đảm nhiệm chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám (từ khoảng năm 1328 đến 1460), triều đình không tổ chức một khoa đại khoa nào (hoặc giả, có tổ chức mà tư liệu lịch sử không ghi lại), ngoại trừ vào năm 1345, nhưng các tư liệu đăng khoa lục không ghi được tên người nào thi đỗ, cũng như trong số họ có ai có những cống hiến đáng kể cho nền học vấn nước nhà. Phải chăng, triều đình không có nhu cầu về nhân sự, hay có tổ chức thi Thái học sinh theo lệ, nhưng không người xuất sắc? Điều này cần có thêm tư liệu minh chứng, song, một giả thuyết là, lúc đó, Quốc Tử Giám đã đào tạo được đủ nhân sự cho triều đình, những người học trong trường được rèn luyện trưởng thành đảm đương được trong trách nên không cần phải mở rộng tuyển chọn trong dân chúng. Nếu thế, thì công của Chu Văn An quả không nhỏ, và phải là như vậy, thì các thế hệ sau mới đánh giá rất cao đóng góp của Chu Văn An với nền giáo dục, coi ông là “ông tổ của các nhà Nho nước Việt ta mà thờ vào Văn Miếu”[13]. Thêm một lý giải cho điều này là, ngay từ khi còn là thày giáo ở quê, khi mới ở tuổi ngòai 30, “tam thập nhi lập”, Chu Văn An đã đào tạo được nhiều học trò thành danh như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát[14]... vậy, thời kỳ sung sức của ông tại trường, trí tuệ chín muồi, chắc chắn sẽ nhiều học trò là con em đại thần, hoàng thân được đào tạo trở thành trụ cột triều đình, mà vì nhiều lý do, sử không chép cụ thể.
Chu Văn An thôi Tư nghiệp Quốc Tử Giám ở tuổi ngoài 60, người ta coi là về trí sĩ (nhiều sử liệu ghi như vậy[15]), nhưng thực ra là ông từ quan, thậm chí sau đó ông còn được mời ra để giữ chức quan khác (không phải Tư nghiệp Quốc Tử Giám) nhưng ông đều từ chối. Nhưng cuộc đời của ông, sinh ra đã có duyên với Văn Miếu-Quốc Tử Giám, nên, khi ông mất vào năm 1370, ông được vua cho thờ ở đây. Đây hẳn là quyết định lớn của triều đình lúc này, và là một ân điển đặc biệt với Chu Văn An. Ông là người Việt Nam đầu tiên được tòng tự tại Văn Miếu. Sau Chu Văn An, Trương Hán Siêu và Đỗ Tử Bình là hai người Việt Nam nữa được nhà Trần cho tòng tự tại Văn Miếu vào năm 1372 và 1380. Việc đưa Chu Văn An, rồi Trương Hán Siêu, Đỗ Tử Bình vào thờ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long đánh dấu một bước tiến quan trọng của nhà nước Đại Việt trong việc tiếp nhận Nho giáo, Nho học, được coi là dấu ấn Việt hóa Nho giáo, nho học nhà Trần trong việc tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tuy nhiên, trong ba người được đưa vào thờ tự tại Văn Miếu dưới thời Trần thì chỉ có Chu Văn An là người được các thế hệ hậu học đánh giá là xứng đáng hơn cả[16]. Và có lẽ vì thế mà Chu Văn An được thờ tự tại Văn Miếu trong suốt 440 năm đến tận đầu thế kỷ XIX[17], và luôn được các thế hệ người Việt coi là ông tổ của các nhà Nho Việt Nam. Ở đây cũng cần nói thêm rằng, việc thôi không thờ Chu Văn An ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám Thăng Long là do thời Nguyễn, kinh đô được đặt ở Huế, Văn Miếu-Quốc Tử Giám Thăng Long chỉ còn là Văn Miếu của Bắc Thành, nên phải theo quy định thờ tự ở Văn Miếu Huế, mà Văn Miếu Huế không thờ Chu Văn An, nên Văn Miếu Thăng Long cũng không thờ Chu Văn An. Sau này, vào năm 1837, Vua Minh Mệnh lại cho thờ Chu Văn An ở Huế, có lẽ ở Văn Miếu Thăng Long tiếp tục thờ Chu Văn An, chỉ đứt quãng khoảng 28 năm[18].
Trải qua biến thiên của lịch sử, ngay cả khi Nho giáo, Nho học không còn được sử dụng nữa kể từ khoa thi Hội cuối cùng được tổ chức vào năm 1919, Chu Văn An vẫn luôn là biểu tượng của nền giáo dục Việt Nam, luôn được tôn vinh và kính trọng ở Văn Miếu. Đặc biệt, để tôn vinh sự học, tôn vinh người thầy tiêu biểu của Việt Nam, nhà nước đã cho đúc tượng thày vào năm 2003 và tôn vinh thầy tại tầng 1 nhà hậu đường khu Thái học – khu Quốc Tử Giám xưa, nơi thày dạy học. Tượng thầy giáo Chu Văn An được đúc bằng đồng ở tư thế ngồi, hai chân buông cân đối phía trước, tay phải cầm quạt, tay trái duỗi tự nhiên đặt lên gối. Chu Văn An đội mũ phẳng ôm sát đầu, phía trước có gắn viên ngọc, khuôn mặt cân đối, vầng trán cao, hai mắt sáng ánh lên vẻ cương trực. Tượng ngồi trên ghế, hai đầu tay ghế hình rồng, đằng sau có ván tựa lưng, phía bên trên hình nan quạt xòe ra như vầng hào quang tỏa sáng. Tượng được đặt trên đế hình vuông, tượng cao 2,3m, nặng 3 tấn tính cả bệ. Bên trên tượng có bức hoành phi lớn với 3 chữ đại tự: 傳 經 正 學 (Truyền kinh chính học - Nho häc ®îc thÓ hiÖn qua truyÒn thô kinh ®iÓn), nêu rõ công lao to lớn của Chu Văn An với nền giáo dục Việt Nam: là người truyền thụ đạo học chân chính cho dân tộc. Hai bên tượng là đôi câu đối cũng nêu rõ con người và sự nghiệp của Chu Văn An
博 於 史 窮 於 經 聖 道 淵 源 開 後 學
行 以 禮 藏 以 義 賢 人 風 節 绍 先 儒
Bác ư sử, cùng ư kinh, thánh đạo uyên nguyên khai hậu học
Hành dĩ lễ, tàng dĩ nghĩa, hiền nhân phong tiết thiệu Tiên nho
Tạm dịch: Hiểu rộng về sử , thấu triệt về kinh (ông đem) uyên nguyên đạo thánh mở mang cho hậu học
Ra làm quan theo lễ, lui về ở ẩn theo nghĩa (ông có) phong độ tiết tháo người hiền nối tiếp các bậc Tiên Nho.
Tượng Chu Văn An tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám ngày nay được đặt chính giữa nhà Hậu đường, nơi trưng bày về nền giáo dục, khoa cử xưa, nơi hàng ngày có hàng ngàn người đến dâng hương tưởng niệm, tìm hiểu về nền giáo dục của cha ông xưa. Đó là một sự tôn kính, tôn vinh của thế hệ nay, cũng là để cho mọi người thấy và ngưỡng mộ tấm gương của thầy. Tin rằng, các thế hệ người Việt Nam, cũng như du khách muôn nơi luôn kính trọng, tôn vinh người thầy đạo cao đức trọng, từ đó tin tưởng phấn đấu, học tập theo gương các bậc tiền bối để thành công, thành nhân. Chu Văn An – người thày giáo tiêu biểu của nền giáo dục Việt Nam, người gắn bó, xây dựng Văn Miếu- Quốc Tử Giám và là người được Văn Miếu-Quốc Tử Giám tôn vinh, thờ phụng như là biểu tượng cho nền giáo dục Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Văn Tú
Trích Hội thảo khoa học “Danh nhân Chu Văn An – Con người và sự nghiệp”
[1] Về sự kiện thành lập Văn Miếu, sách Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, trang 275 (NXB Khoa học Xã hội,1993) viết: “Năm Cảnh Tuất, niên hiệu Thần Vũ thứ 2.....Mùa thu, tháng Tám làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây”. Còn về việc lập Quốc Tử Giám, sách Đại Việt sử ký toàn thư (đã dẫn, tập I, trang 280) cho biết: Năm Bính Thìn, niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng thứ nhất (1076)... Chọn quan viên văn chức, người nào biết chữ cho vào Quốc Tử Giám”. Như vậy có thể thấy, sự xuất hiện chính thức Văn Miếu và Quốc Tử Giám trong chính sử vào các năm 1070 và 1076.
[2] Đại Việt sử ký toàn thư, Sách đã dẫn, tập I, trang 277.
[3] Đại Việt sử ký toàn thư, Sách đã dẫn, tập I, trang 280.
[4] Đại Việt sử ký toàn thư, Sách đã dẫn, tập I, trang 330.
[5] Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Sđd, tr. 12 viết: “ Nhâm Thìn, Kiến Trung năm thứ 8 (1232)...Tháng 2, thi Thái học sinh. Đỗ đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm; đệ nhị giáp là Đặng Diễn, Trịnh Phẫu; đệ tam giáp là Trần Chu Phổ.”
[6] Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Sđd, tr. 15.
[7] Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Sđd, tr. 39.
[8] Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Sđd, tr. 151
[9] Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Sđd, tr. 37 viết: “Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu tìm người tài giỏi, đạo đức, thông hiểu kinh sách làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, tìm người có thể giảng bàn ý nghĩa của Tứ thư, Ngũ kinh sung vào hầu nơi vua đọc sách”.
[10] Đặng Kim Ngọc (2015), “Tế tửu Quốc Tử Giám và Tư nghiệp Quốc Tử Giám trong lịch sử Việt Nam”, Hội thảo khoa học: Tế tửu, tư nghiệp Quốc Tử Giám Thăng Long, Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu Quốc Tử Giám (2015).
[11] Đỗ Văn Ninh (2002), Từ điển chức quan Việt Nam, NXB Thanh Niên (2002) tr. 558.
[12] Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Sđd, tr. 117.
[13] Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Sđd, tr. 151.
[14] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, tr. 268, NXB Giáo dục, 2007.
[15] Khâm định Việt sử thông giám cương mục, NXB KHXH, tập 1, trang 647.
[16] Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử ký tiền biên đã bình: “Nhà Trần cho 3 người là Chu Văn An, Hán Siêu, Tử Bình được thờ phụ ở Văn Miếu. Chu Văn An là hơn rồi, Hán Siêu không làm nổi chức vụ, Tử Bình dù chém cũng chưa hết tội, mà lại chen vào nơi cung đình lễ nhạc, thì còn sai lầm gì hơn. Nay ở giải vũ phía tây vẫn thờ Chu Văn Trinh, còn Hán Siêu, Tử Bình đã bỏ đi, không biết từ thời đại nào. Cũng thấy được lẽ trời lòng người công bằng, há nhất thời có thể nâng lên đè xuống được sao” (Sđ d, NXB KHXH, tr. 470)
[17] Đỗ Hương Thảo (2009), “ Dấu ấn Việt hóa trong Nho giáo thời Trần”, Kỷ yếu hội thảo: Văn Miếu-Quốc Tử Giám và hệ thống di tích Nho học Việt Nam, Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu-Quốc Tử Giám, H. 2009.
[18] Đỗ Hương Thảo (2009), “ Dấu ấn Việt hóa trong Nho giáo thời Trần”, đã dân.
TƯ NGHIỆP QUỐC TỬ GIÁM CHU VĂN AN (1292 - 1370)
Chu Văn An (1292 - 1370), tự Linh Triệt, hiệu Tiều Ẩn đỗ Thái học sinh triều Trần nhưng không ra làm quan mà trở về quê để mở trường dạy học. Cuộc đời ông có thể chia ra thành ba thời kì chính, đó là: thời kỳ mở trường dạy học ở quê nhà, thời kỳ ra làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám Thăng Long và thời kỳ lui về sống ở núi Phượng Hoàng, Chí Linh. Sự nghiệp giáo dục được coi là sự nghiệp xuyên suốt cả ba thời kỳ này.
Tượng thờ Tư nghiệp Quốc tử Giám Chu Văn An tại nhà Thái Học (Ảnh P.NCST)
Khi còn ở quê hương, Thầy mở trường dạy học ở Huỳnh Cung, nằm ven sông Tô Lịch. Ngôi trường nổi tiếng khắp xa gần, học trò từ các nơi tìm về xin được thụ giáo. Nhiều học trò của Thầy đỗ đạt và thăng tiến trên bước đường quan trường, trong số đó, phải kể đến hai nhân vật nổi tiếng là Phạm Sư Mạnh và Lê Quát. Đây là hai vị học quan có nhiều công lao đóng góp cho lịch sử nước nhà, đồng thời cũng là hai tác gia lớn được lưu danh trong lịch sử văn học Việt Nam.
Qua các nguồn tư liệu cho thấy, Thầy Chu Văn An không chỉ là người thông tuệ kinh sách mà còn là một nhà giáo rất nghiêm khắc, lấy mình làm gương mẫu cho học trò noi theo. Những học trò cũ tuy đã làm quan đầu triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát nhưng khi về thăm thầy, đều giữ đạo của người học trò quỳ dưới chân giường để nghe thầy dạy bảo. Được thầy khuyên bảo, khen chê đều rất phấn khởi. Ngược lại, có những học trò làm quan to trong triều nhưng không giữ gìn được phẩm hạnh thì ông nghiêm khắc trách mắng, thậm chí đuổi ra không cho vào hầu.
Chu Văn An đã nổi danh từ những năm tháng mở trường dạy học ở quê nhà với “học trò đầy cửa”. Và cũng chính do tài năng, nhân cách, phương pháp đào tạo học trò mà Thầy đã được vua Trần Minh Tông (1314-1329) mời đến Thăng Long giữ chức Quốc Tử Giám Tư nghiệp và dạy cho Thái tử Trần Vượng (tức vua Trần Hiến Tông sau này).
Trong thời gian ở cương vị đứng đầu trường Quốc Tử Giám, Thầy đã có nhiều đóng góp trong việc hoàn thiện chương trình truyền dạy tư tưởng Nho giáo và đào tạo nhân tài cho đất nước, là một trong những vị hiệu trưởng đầu tiên của Trường Quốc học nước nhà. Trải qua trên dưới 30 năm ở cương vị này, từ việc dạy dỗ các thái tử đến những công việc viết sách giáo khoa, đề xuất các tiêu chí chọn người vào học, chương trình giảng dạy, thi cử để đào tạo và tuyển chọn nhân tài cho đất nước, những cống hiến của Chu Văn An với sự nghiệp giáo dục nước nhà quả thực to lớn, không ai sánh bằng, như Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí đã viết: “Ông Văn Trinh học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, được thời ấy suy tôn, thời sau ngưỡng mộ. Tìm trong làng Nho ở nước Việt ta, từ trước đến nay chỉ có mình ông, các ông khác thực không thể so sánh được”( Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, Nxb Giáo Dục, H. 2007, tr.365).
Thầy Chu Văn An được triều đình tin tưởng giao cho đảm nhận trọng trách dạy dỗ Thái tử Trần Vượng (Người sau này trở thành vua Trần Hiến Tông). Thầy còn dốc lòng phò giúp Thái tử Hạo nối ngôi, trở thành vua Trần Dụ Tông (1341 - 1369). Tuy nhiên do Vua Trần Dụ Tông ngày càng trở nên sa đọa, bỏ bê việc triều chính, khuyên can Vua không được, Thầy đã khẳng khái dâng “Thất trảm sớ” xin chém đầu bảy tên nịnh thần để mong giữ yên triều chính. Vua không nghe, Thầy liền trả mũ áo từ quan lui về ở ẩn, nêu tấm gương sáng về khí tiết cho muôn đời sau noi theo.
Không riêng gì Chu Văn An mà khá nhiều bậc danh sĩ thời phong kiến đều sống theo phương châm “dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng” có nghĩa: được dùng thì hành đạo, không được dùng thì lui về ở ẩn. Chu Văn An cũng như nhiều bậc minh triết khác, sau khi trả mũ áo từ quan đã về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, Chí Linh. Đây cũng là những năm tháng Thầy miệt mài dạy học, nghiên cứu y học, làm thuốc, viết sách, làm thơ. Di tích Điện Lưu Quang – nơi Thầy Chu Văn An từng ở và làm nhà học để dạy môn sinh, giếng Son là nơi thầy trò cùng lấy nước mài mực … mãi ghi dấu những năm tháng cuối đời của Thầy Chu. Ngoài việc trực tiếp dạy dỗ môn sinh, Thầy còn nghiên cứu biên soạn sách giáo khoa. Tương truyền những năm tháng cuối đời ở núi Phượng Hoàng, Chu Văn An có viết một số tác phẩm như: Tứ thư thuyết ước (bộ sách chú giải bộ sách giáo khoa mang tính kinh điển của Nho gia: Tứ Thư), Y học yếu giải, một số sách khác và 12 bài thơ chữ Hán. Thơ của Thầy mang phong cách hoài cổ, ưu tư, ý tưởng nhẹ nhàng, lời thơ thanh thoát, ngôn từ nhã đạm nhưng canh cánh một nỗi niềm lo nước, thương dân:
“Thốn tâm thù vị như hôi thổ,
Văn thuyết tiên hoàng lệ ám huy”
Tạm dịch:
Tấc son nào đã như tro đất,
Nghe nói tiên hoàng giọt lệ sa
(Trích bài thơ “Miết Trì” của Thầy Chu Văn An
Có thể nói, Chu Văn An đã dành cả cuộc đời của mình cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước. Thầy không chỉ là người thầy đã thành công trong việc truyền đạt kiến thức Nho gia để đào tạo môn sinh mà còn là người đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc truyền đạt, giảng giải tri thức với việc giảng dạy đạo làm người, làm quan. Ngày 26 tháng 11 năm Canh Tuất (1370), Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An qua đời ở núi Phượng Hoàng. Thầy được đã được truy tặng tước Công – tước phẩm cao nhất và được tòng tự ở Văn Miếu./.
Ths. Đường Ngọc Hà
Trưởng phòng Nghiệp vụ - Thuyết minh Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám
TRUYỀN THỐNG HIẾU HỌC - KHOA BẢNG CỦA DÒNG HỌ NGHIÊM, YÊN PHONG, BẮC NINH
Làng Quan Độ, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh là một làng có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống văn hiến, tiêu biểu là truyền thống hiếu học, khoa bảng.
Trong lịch sử tồn tại và phát triển trên 8 thế kỷ, gia tộc họ Nghiêm làng Quan Độ đã xây dựng, phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đó là thượng võ và văn hiến. Nhiều người trong gia tộc đã trở thành những nhân vật lịch sử, những danh nhân văn hóa. Bên cạnh những vị cống hiến tài đức cho sự nghiệp bảo vệ và binh bang đất nước dưới thời phong kiến như cụ Nghiêm Tĩnh, cụ Võ tướng Nghiêm Kế còn có rất nhiều những danh nhân khoa bảng. Thời phong kiến, họ Nghiêm làng Quan Độ có nhiều tấm gương điển hình về thông minh, hiếu học, có ý chí tiến thủ bằng học vấn và khoa bảng tiêu biểu như: Nghiêm Thức, Nghiêm Phụ, Nghiêm Ích Khiêm, Nghiêm Lý, Nghiêm Khắc Nhượng, Nghiêm Công Cương, Nghiêm Xuân Diên, Nghiêm Trực Phương, Nghiêm Kính Giản…
Mỗi người trong dòng họ Nghiêm đều cần cù hiếu học, có nhiều vị đi thi rất nhiều lần không đỗ mà chưa hề chùn bước, có thể kể tới: Nghiêm Thúy, Nghiêm Huấn. Có nhiều vị đi dự thi ở cả hai triều đại, chẳng hạn như: Nghiêm Xuân, Nghiêm Trực Phương, Nghiêm Danh Soạn.
Không chỉ làm quan và cống hiến tài đức cho dân, cho nước, nhiều bậc khoa bảng họ Nghiêm ở Quan Độ còn tham gia vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhân tài cho đất nước như: Nghiêm Kính Giản về trí sĩ khi 56 tuổi, ông mở trường dạy học tại quê hương. Học trò theo học rất đông, có tới 300 người. Nghiêm Xuân Diên đỗ Cử nhân thời vua Lê Thần Tông, cụ về mở trường dạy học, tập hợp được rất đông học trò, theo sử sách ghi lại có thời tới 400 người. Rồi cụ Nghiêm Soạn đến triều Tây Sơn, thi đỗ Cử nhân, những không cầu danh lợi, và đi dạy học, con số người theo học cụ lên tới 500 người.
Trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước hiện nay, nhiều con em của họ Nghiêm Quan Độ đã thành đạt trên con đường học vấn và khoa cử. Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay Quan Độ có 16 người tốt nghiệp Cao Đẳng, 53 người có trình độ Đại học (trong đó có 17 kỹ sư, 1 bác sĩ) và có 6 người đạt học vị Thạc sĩ. Điều đáng ghi nhận là các con em họ Nghiêm ở Quan Độ dù vẫn ở quê hay làm ăn xa quê, dù thành đạt trong các công tác tại các cơ quan nhà nước, hay thành đạt trong kinh doanh sản xuất đều gắn bó với quê hương bằng nhiều việc làm thiết thực như đóng góp tiền của, công sức để tu bổ, tôn tạo các di tích lịch sử của gia tộc như: từ đường, đền thờ, lăng mộ của dòng họ (đền Đại Tư Mã, đền thờ Bắc vệ Đại tướng quân Nghiêm Kế, mộ Nghiêm Quý Công …)
Nhìn vào con đường khoa cử, văn nghiệp giáo dục cho chúng ta thấy họ Nghiêm ở Quan Độ đã đóng góp cho đất nước nhiều hiền tài. Ngày nay con cháu họ Nghiêm ở Quan Độ không chỉ đóng góp sức người, sức của cho công cuộc bảo vệ tổ quốc mà còn có tinh thần lao động cần cù xây dựng quê hương. Họ luôn phấn đấu và nỗ lực không ngừng nghỉ để bảo tồn và phát huy truyền thống của gia tộc nói chung và truyền thống hiếu học - khoa bảng nói riêng.
Bài và ảnh: Ngọc Tùng
THẦY CHU VĂN AN NHỮNG NĂM THÁNG Ở TRƯỜNG HUỲNH CUNG
Thanh Trì – Vùng đất ven kinh đô Thăng Long là nơi đã chung đúc khí thiêng sản sinh ra nhiều nhân tài cho dân tộc, trong đó có Thầy giáo lỗi lạc Chu Văn An (1292-1370) tự Linh Triệt, hiệu Tiều Ẩn. Tương truyền, thủa nhỏ, Thầy rất ham đọc sách và nỗ lực tự học vươn lên, về sau đỗ Thái Học sinh (tương đương với Tiến sĩ) nhưng từ chối không ra làm quan mà trở về quê hương mở trường dạy học.
Chặng đường đầu tiên của cuộc đời Thày gắn liền với ngôi trường Huỳnh Cung bên bờ sông Tô (Tô Lịch). Dựng ngay trên gò đất tiếp giáp giữa hai làng Quang Liệt và Cung Hoàng (nay thuộc xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội), ngôi trường làng của Thày Chu An chẳng mấy chốc đã đầy ắp học trò từ khắp Kinh thành Thăng Long, Kinh Bắc, Châu Ái, Châu Hoan, xứ Thanh, xứ Nghệ ... kéo về “đầy cửa, đầy nhà” xin theo học.
Vốn nổi tiếng học vấn uyên thâm, tiết tháo cương trực và nghiêm khắc, Thầy không chỉ truyền dạy những bài học tri thức về Nhân - nghĩa - lễ - Trí - Tín mà còn chú trọng rèn rũa cho học trò đức tính nghiêm túc trong công việc, ứng xử và hết sức đề cao những bài học đạo đức bình dị, dạy đạo làm người phải biết yêu thương gia đình, kính trọng ông bà, bố mẹ..., dạy đạo làm quan phải biết quí trọng người dân và quan tâm chăm lo đến đời sống của họ...vv.
Học trò của Thày (không phân biệt xuất thân giàu - nghèo, sang - hèn) về sau đỗ đạt làm quan trong triều có tới cả trăm người nhưng trong tâm thức của họ Thầy Chu An luôn là “Ngôi sao Bắc Đẩu”sáng chói giữa đêm trường. Bởi vậy, khi chép về Thày, nhà sử học Phan Huy Chú đã ca ngợi: “Về tư cách làm thầy của Tiên sinh rất long trọng mà cứng cỏi, nghiêm trang, ngay như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát đã làm chức Hành khiển (tương đương với chức Tể tướng thời Lê), cũng đều giữ lễ học trò; khi tới thăm hỏi còn lạy dưới giường, được cùng Thầy nói chuyện thì rất vui mừng. Nếu họ có điều gì không phải, Ông trách mắng liền, có khi thét quở không cho vào. Nghiêm nghị đáng sợ là như thế. Đức vọng của Ông rất cao, các bậc công khanh đều hâm mộ”.
Nhắc lại những năm tháng dạy học của Thầy Chu Văn An ở Trường Huỳnh Cung cần nhấn mạnh rằng: Khởi thủy từ triều Lý (thế kỷ XI-XIII), trải qua các triều đại Trần (thế kỷ XIII-XV), Lê (thế kỷ XV-XVIII), Nguyễn (thế kỷ XIX-XX), một hệ thống các trường lớp Nho học dần được thiết lập từ trung ương đến địa phương, bắt đầu từ Trường Quốc Tử Giám Thăng Long (1076) rồi lan rộng đến các phủ, huyện trong cả nước. Năm 1253, triều đình lập Quốc học viện, năm 1281 lập nhà học ở phủ Thiên Trường, năm 1397 đặt học quan tại Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Đông; Trường, lớp được mở khắp các vùng từ Kinh thành Thăng Long, lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình đến Thanh Hóa, Nghệ An; Đến cuối thế kỷ XVIII, hầu hết khắp các phủ, lộ đều có trường công, khắp các làng quê trên cả nước đều có trường tư, góp phần đào tạo cho Đất nước hàng nghìn các bậc Đại khoa - Hiền tài.
Và Ngôi trường Huỳnh Cung củaThầy Chu Văn ở Thanh Trì chính là một trong những Ngôi trường Tư thục đầu tiên ở Việt Nam./.
Đỗ Thị Tám
CHU VĂN AN (1292-1370) TƯỢNG ĐÀI NGƯỜI THÀY TRONG LÒNG DÂN TỘC
Năm nào cũng vậy, từ tháng 3 đến tháng 5 dương lịch, hàng trăm trường học các cấp tại Thủ đô và các tỉnh thành lân cận lại nô nức đổ về Ngôi trường Đại học đầu tiên của Đất nước để làm lễ Dâng hương - Khuyến học tôn vinh Thầy giáo Chu Văn An và phát động phong trào học tập, nối bước tiền nhân. Theo thống kê sơ bộ, năm 2018, chỉ tính riêng tại Di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội (chưa kể đến Văn Miếu Mao Điền và hàng chục đền thờ Chu Văn An tại các địa phương khác) đã có tới trên 700 trường học với hơn 120.000 lượt học sinh, sinh viên tề tựu về tham dự các buổi lễ trang trọng tôn vinh Thầy.
Là một nhà Nho nổi tiếng tiết tháo, cương trực thời Trần, Thầy Chu Văn An đỗ đạt cao nhưng không ra làm quan mà về quê mở trường dạy học. Cả cuộc đời Thầy từ lúc làm thầy giáo trường làng (ở Thanh Trì-Hà Nội) đến khi làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám (tại kinh đô Thăng Long), rồi làm thầy giáo của nhà vua hay lúc từ quan về ẩn (tại Chí Linh-Hải Dương) luôn nêu cao tấm gương một người Thày mẫu mực, hết lòng vì sự nghiệp giáo dục của Đất nước.
Tượng thờ thầy Chu Văn An tại khu Thái Học
Học sinh tham dự lễ Dâng hương - Khuyến học tôn vinh Thầy giáo Chu Văn An
Quan điểm giáo dục của Thầy cốt yếu nhấn mạnh đến giáo dục đạo đức, nhằm dạy học trò tất cả mọi tầng lớp học trò (không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo) biết cách đối nhân xử thế, biết cách sống phù hợp với mọi hoàn cảnh và hòa hợp với đồng loại, “làm cho cuộc sống của chính họ và những người xung quanh trở nên tốt đẹp hơn”; Tiếp đó, Thầy chủ trương kết hợp học với hành, chú trọng giáo dục kỹ năng, tri thức, khuyến khích học trò “tự suy nghĩ, khơi dậy, phát hiện chân lý cũng như khả năng ẩn giấu trong từng con người” để có thể hoàn thành tốt trách nhiệm của mình đối với gia đình và xã hội.
Mấy trăm năm lịch sử đã trôi qua nhưng lời dạy của Thầy vẫn còn nguyên giá trị: “Phàm học thành đạt cho mình là để thành đạt cho người, công đức tới dân, ân huệ để lại đời sau, đấy đều là phận sự của ... chúng ta”. Trên cả nước ta, hiện có tới 50 trường học mang tên Thầy Chu Văn An (gồm: 10 trường Tiểu học, 19 trường Trung học Cơ sở, 17 trường Trung học phổ thông, 03 trường Liên cấp và 01 trường Đại học) và 22/64 tỉnh, thành phố có đường, phố mang tên Thầy Chu Văn An (Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Lào Cai, Thái Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa...). Những câu chuyện về Thầy (Sự tích cái đầm mực) đã đi vào truyền thuyết - Thầy Chu Văn An đã đi vào lòng dân tộc. Nhân dịp kỷ niệm 650 năm ngày mất của Thầy, Hồ sơ Danh nhân Chu Văn An đã được Sở VH&TT Hà Nội xây dựng, trình Hội đồng UNESCO xét duyệt thông qua vào tháng 4/2019./.
(Tư liệu trích: Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chu Văn An - Trung tâm HĐ VHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám)
TƯ NGHIỆP QUỐC TỬ GIÁM CHU VĂN AN
Chu Văn An (1292-1370) sinh tại làng Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là thôn Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, Việt Nam). Ông là một nhà giáo mẫu mực của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời Chu Văn An gắn liền với việc dạy học, làm thầy ở ba không gian: quê hương Thanh Liệt (Thanh Trì), Quốc Tử Giám (Thăng Long) và Chí Linh (Hải Dương). Năm 1324, Chu Văn An được vua Trần Minh Tông mời ra giữ chức Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám. Quốc Tử Giám - Trung tâm giáo dục cao cấp nhất của Việt Nam thời quân chủ để đào tạo nhân tài cho đất nước. Chu Văn An chính là vị Tư nghiệp Quốc Tử Giám đầu tiên.
Tượng thờ Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An tại Khu Thái Học
Chu Văn An tấm gương mẫu mực về đạo đức, trí tuệ và tinh thần, trách nhiệm với đất nước. Ông không chỉ dạy chữ và tri thức mà còn dạy làm người (tư tưởng, đạo đức, phẩm tiết) dạy học trò biết ứng xử với xã hội, với chính mình và với thiên nhiên - đây cũng chính là giá trị nhân sinh trong thời đại ngày nay.
Sinh thời, Chu Văn An luôn đề cao vai trò của tri thức, của giáo dục, đào tạo và của văn hóa trong công cuộc xây dựng quốc gia, dân tộc vững mạnh, yêu hòa bình. Nhân dân Việt Nam lưu truyền câu nói của ông: “Ta chưa từng nghe nước nào coi nhẹ sự học mà khá lên được”.
Hiện tại có tới 22/64 tỉnh, thành phố trải dài trên khắp đất nước Việt Nam có đường, phố mang tên của ông gồm: Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Lào Cai, Thái Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa,… Trong số 22 tỉnh, thành phố có tên Chu Văn An có 09 phố, 23 đường.
Bên cạnh đường, phố, còn có rất nhiều trường học ở các cấp mang tên Chu Văn An. Trong cả nước có 50 trường học mang tên Chu Văn An gồm: 10 trường Tiểu học, 19 trường Trung học Cơ sở, 17 trường Trung học phổ thông, 03 trường Liên cấp và 01 trường Đại học. Năm 2018, Trung tâm Hoạt động VHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám được giao nhiệm vụ xây dựng hồ sơ để trình UNESCO đề nghị cùng kỷ niệm 650 năm ngày mất của Chu Văn An vào năm 2020.